Hiện nay Vệt Nam đang ở trong giai đoạn hội nhập. Nói đến ngoại thương của
Việt Nam chúng ta không thể không nói đến những bước thăng trầm của nó trước và
sau khi chuyển đổi nền kinh tế. Trước kia ảnh hưởng bởi nền kinh tế tập chung, ngoại
thương Việt Nam mang tính chất phiến diện nghèo nàn. Chúng ta chủ yếu quan hệ với
Liên Xô và các nước đông Âu trên cơ sở không hoàn lại. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế
sang cơ chế thị trường với quan điểm: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị trên cở các bên cùng có lợi thì nền ngoại thương Việt
Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ, hiện nay Việt Nam có quan hệ buôn bán với hầu hết
các quốc gia trên thế giới
Cùng với xu thế hội nhập, xuất khẩu đã trở thành vấn đề sống còn của nhiều nền
kinh tế thế giới. Việt Nam từ khi mở cửa nền kinh tế cũng đã xác định xuất khẩu là vấn
đề then chốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 2001-2010 đang đặt ra cho
hoạt động xuất nhập khẩu những yêu cầu mới, đó là ngày càng phải chú trọng tới việc
nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả cuả hoạt động xuất khẩu
Là một sinh viên của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, tiếp thu những kiến thức
hữu ích về lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói
riêng, được nhà trường tạo điều kiện thực tập tại Công ty XNK Tổng hợp I – một công
ty kinh doanh hiệu quả và có uy tín trên thị trường. Qua quá trình thực tập tại công ty,
em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
tại công ty XNK Tổng hợp I” để nghiên cứu trong luận văn của mình, với mong muốn
tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực xuất khẩu và hiệu quả của nó ở Việt Nam thông qua thực
tiễn tại Công ty XNK Tổng hợp I. Nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lí luận chung về hiệu quả xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao
hiệu quả xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả xuất khẩu tại công ty XNK Tổng hợp I
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của công ty XNK
Tổng hợp I trong thời gian tới.
81 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2004 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập
khẩu Tổng hợp I
Lời nói đầu
Hiện nay Vệt Nam đang ở trong giai đoạn hội nhập. Nói đến ngoại thương của
Việt Nam chúng ta không thể không nói đến những bước thăng trầm của nó trước và
sau khi chuyển đổi nền kinh tế. Trước kia ảnh hưởng bởi nền kinh tế tập chung, ngoại
thương Việt Nam mang tính chất phiến diện nghèo nàn. Chúng ta chủ yếu quan hệ với
Liên Xô và các nước đông Âu trên cơ sở không hoàn lại. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế
sang cơ chế thị trường với quan điểm: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị trên cở các bên cùng có lợi thì nền ngoại thương Việt
Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ, hiện nay Việt Nam có quan hệ buôn bán với hầu hết
các quốc gia trên thế giới
Cùng với xu thế hội nhập, xuất khẩu đã trở thành vấn đề sống còn của nhiều nền
kinh tế thế giới. Việt Nam từ khi mở cửa nền kinh tế cũng đã xác định xuất khẩu là vấn
đề then chốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 2001-2010 đang đặt ra cho
hoạt động xuất nhập khẩu những yêu cầu mới, đó là ngày càng phải chú trọng tới việc
nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả cuả hoạt động xuất khẩu
Là một sinh viên của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, tiếp thu những kiến thức
hữu ích về lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói
riêng, được nhà trường tạo điều kiện thực tập tại Công ty XNK Tổng hợp I – một công
ty kinh doanh hiệu quả và có uy tín trên thị trường. Qua quá trình thực tập tại công ty,
em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
tại công ty XNK Tổng hợp I” để nghiên cứu trong luận văn của mình, với mong muốn
tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực xuất khẩu và hiệu quả của nó ở Việt Nam thông qua thực
tiễn tại Công ty XNK Tổng hợp I. Nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lí luận chung về hiệu quả xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao
hiệu quả xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả xuất khẩu tại công ty XNK Tổng hợp I
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của công ty XNK
Tổng hợp I trong thời gian tới.
Chương 1
cơ sở lí luận về hiệu quả kinh Doanh xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu
quả kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp
1.1. Tổng quan về hiệu quả kinh doanh
1.1.1. Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
* Khái niệm kinh doanh
Để hiểu khái niệm hiệu quả kinh doanh trước hết ta xem xét khái niệm kinh
doanh. Đây là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho kinh doanh là
việc dùng công sức và tiền của để tổ chức các hoạt động nhằm mục đích kiếm lời trên
thị trường. Có người cho kinh doanh là việc bỏ ra một số vốn ban đầu vào hoạt động
trên thị trường để thu lại lượng vốn lớn hơn sau một khoảng thời gian nào đấy.
Luật kinh doanh của Việt Nam có khái niệm "kinh doanh là việc thực hiện một số
hoặc tất cả các công đoạn các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Như vậy, nếu loại bỏ các phần khác nhau nói về phương diện, phương thức, kết
quả cụ thể của hoạt động kinh doanh thì có thể hiểu kinh doanh là các hoạt động nhằm
mục đích sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
* Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Nếu xét về kết quả cụ thể của hoạt động kinh doanh ta có thuật ngữ hiệu quả kinh
doanh. Trong quá khứ cũng như hiện tại còn có nhiều quan niệm khác nhau về thuật
ngữ này. Tuy nhiên, ta có thể chia các quan niệm này thành các nhóm cơ bản sau
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt
động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá
Theo quan điểm này thì hiệu quả kinh doanh cũng chính là kết quả kinh doanh,
quan điểm này chỉ đề cập đến doanh thu mà không đề cập đến chi phí kinh doanh, hai
hoạt động kinh doanh cùng đem lại một kết quả, doanh thu thì chúng có cùng hiệu quả
kinh doanh dù chúng có hai mức chi phí khác nhau, đây là hạn chế của quan điểm này
- Quan điểm thứ hai cho rằng: hiệu quả kinh doanh là một quan hệ tỉ lệ giữa phần
tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã nói lên quan hệ
so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
đó, nhưng quan điểm này cũng có hạn chế là lại chỉ xét tới phần kết quả và chi phí bổ
sung.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa
kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Quan điểm này đã phản ánh
được mối liên hợp bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn được kết quả với các chi
phí. Tuy nhiên, kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động, nên quan điểm này chưa biểu
hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí
- Quan điểm thứ tư cho rằng: hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ
giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời
phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất.
1.1.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh
Từ các quan điểm trên ta có thể thấy được bản chất của hiệu quả kinh doanh. Hiệu
quả kinh doanh bản chất là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất
các mục tiêu kinh tế - xã hội và chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh phải được xem
xét ở cả hai mặt định tính và định lượng.
Về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh doanh là những lỗ lực của doanh nghiệp
và phản ánh trình độ quản lý của doanh nghiệp đồng thời gắn những lỗ lực đó với việc
đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu của doanh nghiệp và của xã hội.
Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện tương quan so sánh giữa kết quả
thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh chỉ có được khi
kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra, mức chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng
cao và ngược lại. Cả hai mặt định tính và định lượng của hiệu quả kinh doanh có quan
hệ chặt chẽ với nhau không tách rời nhau.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà các quốc gia trên thế giới luôn đề cao vấn đề an
toàn cho người tiêu dùng, an toàn vệ sinh, môi trường vấn đề lao động và trách nhiệm
xã hội thì hiệu quả kinh doanh từ khi còn gắn với hiệu quả chính trị - xã hội.
1.1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Trong thực tế có nhiều loại hiệu quả kinh doanh khác nhau để tiện cho việc quản lý
và nâng cao hiệu quả kinh doanh ta thường phân loại hiệu quả kinh doanh theo các tiêu
thức khác nhau.
* Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả kinh doanh thành hiệu quả tuyệt đối và
hiệu quả tương đối
Đây là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí.
Hiệu quả tuyệt đối được tính bằng công thức
nhuËn lîi phÝchi -qu¶ kÕt H
Hiệu quả tương đối phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh
nghiệp.
phÝChi
qu¶KÕt
H1
qu¶KÕt
phÝChi
H 2
* Nếu căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả có hiệu quả kinh doanh tổng hợp và
hiệu quả kinh doanh bộ phận
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh
nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả tính riêng cho từng bộ phận của doanh
nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất.
* Căn cứ vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả có hiệu quả tài chính và hiệu quả
chính trị - xã hội.
Hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt kinh tế tài
chính được biểu hiện qua các chỉ tiêu thu chi trực tiếp của doanh nghiệp.
Hiệu quả chính trị - xã hội là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt chính
trị - xã hội - môi trường.
* Ngoài ra nếu căn cứ vào thời gian mang lại hiệu quả có hiệu quả trước mắt và
hiệu quả lâu dài, căn cứ vào đối tượng xem xét có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián
tiếp.
Việc phân loại hiệu quả theo các căn cứ như trên chỉ có tính chất tương đối, một
chỉ tiêu có thể vừa là hiệu quả tuyệt đối vừa là hiệu quả tài chính, vừa là hiệu quả lâu
dài....do đó tuỳ thuộc vào mục đích và phạm vi nghiên cứu mà người ta có thể phân chia
hiệu quả kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau.
1.1.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
Có rất nhiều các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh để đánh giá hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, người ta sử dụng một hệ thống các chỉ
tiêu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu này cho
chúng ta biết số kết quả về mặt lượng của phạm trù hiệu quả kinh tế, hiệu quả đạt được
cao hay thấp sau mỗi kỳ kinh doanh.
1.1.3.1.Phân loại các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp được phân thành ba loại.
- Một là các chỉ tiêu dùng để tính toán hiệu quả kinh doanh, các chỉ tiêu này chỉ
dùng để tính toán hiệu quả kinh doanh chứ bản thân nó không phản ánh đầy đủ hiệu quả
kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này bao gồm: Giá trị sản lượng hàng
hoá, giá thành, doanh thu tiêu thụ, vốn đầu tư...
- Hai là các chỉ tiêu sử dụng để phản ánh hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu thuộc loại
này phản ánh trực tiếp hiệu quả kinh doanh thông qua quan hệ đạt được và các chi phí
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Các chỉ tiêu này bao gồm năng suất lao động, thời hạn thu
hồi vốn đầu tư, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.....
- Ba là các chỉ tiêu sử dụng để so sánh hiệu quả kinh doanh . Các chỉ tiêu này dùng
để so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp, hay khi một doanh nghiệp có
nhiều phương án kinh doanh khác nhau và lựa chọn một trong số các phương án đó.
1.1.3.2. Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận,
tỷ suất lợi nhuận, mức vốn hao phí cho một đơn vị sản phẩm, thời hạn thu hồi vốn đầu
tư, hệ số sử dụng vốn, năng suất lao động,...
+ Lợi nhuận: Chỉ tiêu lợi nhuận được tính theo công thức sau:
P= D - (Z + Th + TT)
Trong công thức trên
P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
D: Doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
Z: Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
TT: Các tổn thất sau mỗi kỳ kinh doanh
Trong cơ chế thị trường lợi nhuận vừa được coi là nhân tố để tính toán hiệu quả
kinh tế vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của doanh nghiệp.
+ Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận được tính theo hai cách:
DT
P
'P1
vsx
p
p'2
P'1 cho biết một đồng doanh thu thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận
P'2 Cho biết một đồng vốn sản xuất (chi phí) thì tạo được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Trong cơ chế thị trường thì tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng, nó dùng để
so sánh khả năng sinh lời giữa các doanh nghiệp khác nhau, hay giữa các ngành khác
nhau.
+ Mức vốn hao phí cho một đơn vị sản phẩm.
Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
Sv=
Q
V
Trong công thức trên:
Sv: Suất hao phí vốn
V: Tổng vốn
Q: Sản lượng (tính theo sản phẩm)
Chỉ tiêu này cho biết được hiệu quả sử dụng các loại vốn của doanh nghiệp. Lượng
vốn sử dụng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu trên còn được cụ thể hoá cho từng loại vốn như sau
Q
VDT
S vdt
Q
VCDS vcd
Q
VLD
S vld
S vdt , S vcd , S vld : suất phí vốn đầu tư, vốn cố định, vốn lưu động
Các chỉ tiêu này cho thấy một đơn vị vốn sẽ tạo ra được bao nhiêu sản phẩm hàng
hoá. Các suất hao phí càng thấp thì hiệu quả càng cao và ngược lại.
+ Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư phản ánh khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần dần
được thu hồi lại sau mỗi kì kinh doanh
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư đựơc xác định bằng công thức
P
VDT
T v
VDT: tổng số vốn đầu tư cho kì kinh doanh đó
P: lợi nhuận thu được sau mỗi kì kinh doanh
T v mà càng ngắn thì hiệu quả dụng vố đầu tư càng cao và ngược lại
+ Hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của một đồng vốn
+ Cùng với chỉ tiêu E người ta còn sử dụng các chỉ tiêu hệ số hiệu quả sử dụng vốn cố
định, vốn lưu động, và được tính bằng công thức
VLD
P
Evld
VLD
PEvcd
+ Năng suất lao động (W)
L
QW
Q khối lượng hàng hoá tạo ra trong kì
VDT
P
Tv
1E
L: số lượng lao động bình quân kì kinh doanh
Chỉ tiêu cho biết khối lượng sản phẩm hàng hoá được tạo ra trên một đầu người.
Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng lớn
+ Suất hao phí lao động sống
Chỉ tiêu này là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu năng suất lao động
Q
L
WS ld
1
Chỉ tiêu cho biết lượng hao phí lao động cho việc tạo ra một đơn vị sản phẩm. Chỉ
tiêu này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng lao động càng có hiệu quả.
+ Ngoài các chỉ tiêu về năng suất lao động tính theo sản phẩm người ta còn tính các chỉ
tiêu sau
Doanh thu bình quân một lao động
L
DT
Mức sinh lời của một lao động
L
P
Trên đây chỉ là một số chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều các chỉ tiêu khác tuỳ thuộc
vào phạm vi và mục đích nghiên cứu
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp và
nhất là đối với một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì hiệu quả kinh doanh của một
doanh nghiệp càng bị chi phối bởi nhiều nhân tố. Tuy nhiên ta có thể phân loại các nhân
tố này làm hai nhóm đó là nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp và nhóm các nhân
tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.1.4.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Nhóm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp bao gồm các nhân tố thuộc môi trường
kinh doanh quốc gia và các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc tế
* Nhân tố môi trường kinh doanh quốc gia
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng tới hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp bao gồm môi trường văn hoá chính trị, luật pháp, kinh tế và
cạnh tranh
- Môi trường văn hoá của quốc gia phản ánh thẩm mĩ, giá trị và thái độ, phong tục
tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo dục…sự đa dạng về văn hoá
có thể tạo điều kiện cho một số sản phẩm này tăng doanh thu nhưng có thể lại làm cho
một số sản phẩm khác phải tăng chi phí để thích nghi hoá sản phẩm cho phù hợp với thị
hiếu địa phương. Do đó việc hiểu biết về nền văn hoá quốc gia sẽ giúp cho nhà quản trị
điều hành có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất và bán hàng của mình
- Những nhân tố chính trị và luật pháp là những vấn đề liên quan đến vai trò quan
trọng của chính phủ và luật pháp đối với kinh doanh. Các yếu tố chính trị và luật pháp
bao gồm sự ổn định của chính phủ, mức độ tham nhũng trong hệ thống chính trị, và các
tiến trình chính trị có ảnh hưởng tới các chính sách kinh tế.
Các yếu tố pháp luật bao gồm các đạo luật điều chỉnh việc trả lương tối thiểu, an
toàn lao động cho công nhân, bảo vệ môi trường và người tiêu dùng, và những gì được
quy định là hành vi cạnh tranh hợp pháp hay bất hợp pháp.
Hệ thống luật pháp của một quốc gia nào đầy đủ, rõ ràng nhất quán và mở rộng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nhiệp, đồng thời tiết kiệm
được chi phí do luật pháp không rõ ràng, không nhất quán gây ra. Sự ổn định hay bất ổn
định của hệ thống chính trị cũng ảnh hưởng đến việc tăng kết quả kinh doanh hay giảm
chi phí kinh doanh.
- Những yếu tố kinh tế bao gồm các biến số về kinh tế và tài chính như lãi suất và
thuế suất, cơ cấu tiêu dùng, năng suất và mức sản lượng. Các yếu tố đó còn bao gồm các
chỉ số về hạ tầng cơ sở như truyền thông, mạng lưới phân phối … và mức độ sẵn có và
mức phí tổn về năng lượng.
Các yếu tố kinh tế và sự thay đổi của nó đều có tác động trực tiếp đến yếu tố thị
trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng đến việc tăng giảm các
chỉ tiêu kết quả kinh doanh hoặc tăng giảm một số loại chi phí kinh doanh. Sự biến
động chung có thể là cùng chiều giữa các yếu tố trên nhưng với tốc độ khác nhau cũng
tạo ra sự biến động không đều của các chỉ tiêu kết quả và chi phí do đó cũng tác động
tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Những yếu tố cạnh tranh bao gồm những yếu tố như số lượng các đối thủ cạnh
tranh của công ty và chiến lược cạnh tranh của chúng, cơ cấu giá thành và chất lượng
sản phẩm. Ngoài ra còn tính đến việc cạnh tranh có ảnh hưởng như thế nào đến giá
thành và mức độ sẵn có của các nguồn lực như lao động, vốn tài chính, nguyên liệu thô.
Cuối cùng các yếu tố cạnh tranh còn liên quan đến tính cách, hành vi cư sử và sở thích
của người tiêu dùng đối với các sản phẩm của công ty và các đối thủ cạnh tranh của nó,
như vậy các yếu tố cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới chi phí hay
kết quả của doanh nghiệp, có nghĩa là sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bốn nhóm yếu tố của môi trường kinh doanh quốc gia trên đây ảnh hưởng tới cách
thức hoạt động của tất cả các công ty kinh doanh trong bất kì môi trường kinh doanh
quốc gia nào. Các nhà sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ không tham gia vào các
hoạt động kinh doanh quốc tế cũng bị ảnh hưởng.
Các công ty nội địa quan tâm chủ yếu tới việc các yếu tố bên ngoài trong một môi
trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động của công ty. Ngược
lại các công ty kinh doanh quốc tế phải quan tâm đến các yếu tố bên ngoài của tất cả
các yếu tố bên ngoài của tất cả các môi trường kinh doanh quốc gia có liên quan đến
hoạt động của công ty, đó là môi trường kinh doanh quốc tế.
* Môi trường kinh doanh quốc tế.
Môi trường kinh doanh quốc tế liên kết các môi trường kinh doanh quốc gia trên
thế giới với nhau, và trở thành đường dẫn theo đó các yếu tố bên ngoài của một nước
ảnh hưởng tới các công ty ở các quốc gia khác nhau. Môi trường kinh doanh quốc tế và
sự biến động của nó cũng tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, nếu như các biến động trong kinh doanh quốc tế thuận lợi sẽ mở ra nhiều thời
cơ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có thể làm cho doanh thu tăng do
nhu cầu về sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường tăng lên và ngược lại.
Giá cả của các sản phẩm trên thị trường thế giới biến động theo hướng tăng lên hay
giảm đi tác động trực tiếp đến giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Sự
biến động về tỷ giá và lãi suất giữa các đồng tiền đặc biệt là giữa các đồng tiền mạnh
cũng ảnh hưởng tới chi phí vốn, đến giá cả các yếu tố đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp,
và do đó ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, ngoài ra các yếu tố bên trong
doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp .
Các nhân tố bên trong doanh nghiệp ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm trình độ công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất và trình độ quản lí của
doanh nghiệp
* Trình độ công nghệ và sự đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng có tác động rất lớn đến sản phẩm mà doanh
nghiệp sản xuất ra, cũng như tác động đến chi phí và giá thành của sản phẩm. Việc
doanh nghiệp đổi mới và nâng cao trình độ công ghệ của doanh nghiệp cũng không
ngoài mục đích tăng doanh thu do tăng sản lượng hay do từ các sản phẩm có chất lượng
cao hơn và đáp ứng được nhu cầu của thị trường, do tăng giá bán của các sản phẩm có
chất lượng tốt hơn, mẫu mã kiểu cách đẹp hơn; do giảm được chi phí do giảm tiêu hao
nguyên liệu, giảm phế phẩm, tăng chính phẩm.
Hiện nay dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ đang phát triể