Các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế đất nước. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nhiều doanh
nghiệp đã không ngừng vươn lên khắc phục khó khăn nghiệt ngã của cơ chế thị trường,
đứng vững và ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, vẫn còn rất
nhiều doanh nghiệp đã bộc lộ sự yếu kém, lúng túng trong hoạt động làm ăn kém hiệu quả.
Để tạo thế mạnh cho doanh nghiệp phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định
rõ các điều kiện quyết định đến hiêụ quả sản xuất kinh doanh. Đó là vốn và con người. Vốn
là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh, là điều kiện
không thể thiếu được của mỗi doanh nghiệp, vì thế doanh nghiệp luôn luôn phải bảo đảm
vốn cho hoạt động của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn sẽ tạo ra lợi nhuận làm cơ sở cho doanh nghiệp đứng vững hơn thương
trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao
động. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề cấp bách đối với mọi doanh
nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Qua việc phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn giúp cho doanh nghiệp nắm bắt
kịp thời tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp mình để từ đó đề ra các giải pháp tăng
cường quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thấy
rõ vai trò quan trọng và sự cần thiết của vấn đề, trong thời gian học tập tại trường và đặc biệt
là thời gian thực tập tại Xí nghiệp xây lắp điện em đã chọn đề tài:
“Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Xí Nghiệp
xây lắp điện”.
84 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2056 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Xí Nghiệp xây lắp điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh ở Xí
Nghiệp xây lắp điện
Mở đầu
Các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế đất nước. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nhiều doanh
nghiệp đã không ngừng vươn lên khắc phục khó khăn nghiệt ngã của cơ chế thị trường,
đứng vững và ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, vẫn còn rất
nhiều doanh nghiệp đã bộc lộ sự yếu kém, lúng túng trong hoạt động làm ăn kém hiệu quả.
Để tạo thế mạnh cho doanh nghiệp phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định
rõ các điều kiện quyết định đến hiêụ quả sản xuất kinh doanh. Đó là vốn và con người. Vốn
là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh, là điều kiện
không thể thiếu được của mỗi doanh nghiệp, vì thế doanh nghiệp luôn luôn phải bảo đảm
vốn cho hoạt động của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn sẽ tạo ra lợi nhuận làm cơ sở cho doanh nghiệp đứng vững hơn thương
trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao
động. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề cấp bách đối với mọi doanh
nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Qua việc phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn giúp cho doanh nghiệp nắm bắt
kịp thời tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp mình để từ đó đề ra các giải pháp tăng
cường quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thấy
rõ vai trò quan trọng và sự cần thiết của vấn đề, trong thời gian học tập tại trường và đặc biệt
là thời gian thực tập tại Xí nghiệp xây lắp điện em đã chọn đề tài:
“Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Xí Nghiệp
xây lắp điện”.
Với nội dung nghiên cứu là tìm hiểu các vấn đề lý luận cơ bản về vốn và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, xem xét hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp xây lắp điện, từ đó đưa
ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp trong thời gian tới.
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được chia làm ba phần:
Chương I: Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Chương II: Phân tích thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của xí
nghiệp xây lắp điện.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của xí nghiệp xây lắp điện.
Chương I
Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh
I. Vốn kinh doanh
1. Khái niệm về vốn
Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với sản xuất hàng
hoá và đóng vai trò quan trọng bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được tiến hành thuận lợi theo mục đích đã định.
Có rất nhiều quan niệm về vốn: Vốn theo khái niệm mở rộng không chỉ là tiền tệ mà
còn là nguồn lực như lao động, đất đai, trí tuệ...
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển thì vốn là một trong các yếu tố đầu
vào để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này vốn được xem xét dưới
góc độ hiện vật là chủ yếu, chưa xem xét dưới góc độ tài chính – phần cơ bản nhất của vốn.
Tuy nhiên quan điểm này có rất nhiều ưu điểm: đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với trình độ quản
lý thời sơ khai.
Theo quan điểm của một số nhà tài chính thì vốn lại là tổng số tiền của các cổ đông
đóng góp và họ được hưởng phần thu nhập chia cho chứng khoán của công ty. Theo quan
điểm này vốn được xem xét dưới góc độ tài chính là chủ yếu, đồng thời làm rõ được nguồn
gốc cơ bản vốn của doanh nghiệp. Quan điểm này có ưu diểm là kích thích các nhà đầu tư
tăng cường đầu tư vốn cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, quan điểm này
không cho thấy trạng thái và quá trình sử dụng vốn, do đó làm giảm vai trò và ý nghĩa của
công tác quản lý vốn.
Theo một số nhà kinh tế học hiện đại,thì vốn được xem xét dưới cả góc độ vốn hiện
vật và vốn tài chính. Theo quan điểm này, vốn là một loại hàng hoá nhưng được tiếp tục sử
dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo.ở đây chúng ta đã thấy rõ nguồn hình thành
và trạng thái biểu hiện của vốn, nhưng những mục đích sử dụng của vốn chưa được thể hiện
trong quan điểm này.
Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng: Vốn bao gồm toàn bộ yếu tố
kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh như tài sản hữu hình, tài sản vô hình,
trình độ quản lý và tác nghiệp của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, lợi
thế cạnh tranh cũng như uy tín của nó... Quan điểm này có ý nghĩa rất quan trọng, nó cho
phép các doanh nghiệp tận dụng và khai thác triệt để hiệu quả của vốn trong cơ chế thị
trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó khăn, đặc biệt lượng vốn
thể hiện thông qua sự lượng hoá các yếu tố trong doanh nghiệp và vấn đề vốn được xác định
còn khó khăn hơn với nước ta khi trình độ quản lý chưa cao và một hệ thống pháp luật chưa
hoàn chỉnh.
Theo quan điểm của Mác, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu
vào của quá trình sản xuất. Tuy định nghiã của Mác mang một tầm khái quát lớn nhưng do
bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên ông đã quan niệm chỉ có khu
vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước
bao cấp hoàn toàn về vốn thông qua cơ chế cấp vốn của ngân sách Nhà nước và hệ thống tín
dụng ngân hàng. Với cơ chế này, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ có chức năng sản xuất, mà
không có chức năng kinh doanh, vì vậy mà phạm trù vốn kinh doanh của doanh nghiệp Nhà
nước không được đặt ra.
Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, ngoài chức năng sản xuất ra
sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội, doanh nghiệp Nhà nước còn
có thêm chức năng kinh doanh với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phạm trù vốn kinh doanh
ra đời trong bối cảnh này, bởi vì muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần
thiết phải có vốn, trong đó, ngoài nguồn vốn của Nhà nước, còn có nguồn vốn do doanh
nghiệp huy động để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không ngừng vận động
và tồn tại ở nhiều hình thái vật chất khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu
thụ trên thị trường. Chúng ta có thể khái quát vòng luân chuyển của vốn qua sơ đồ sau: T –
H – T’ (T’ > T). Qua sơ đồ này ta thấy từ những đồng vốn ban đầu doanh nghiệp mua sắm
các trang thiết bị, vật tư, nhân công... để phục vụ cho quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, vốn
lại trở về hình thái ban đầu là tiền (doanh thu bán hàng), kết thúc một vòng luân chuyển vốn
và bắt đầu vòng luân chuyển mới. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau khi tiêu thụ được sản
phẩm phải lớn hơn số tiền ban đầu doanh nghiệp bỏ ra, như thế mới có thể bù đắp được chi
phí và đảm bảo có lãi. Như vậy vốn sẽ được tái đầu tư vào kinh doanh với quy mô lớn hơn,
làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra một khái niệm về vốn như sau: “Vốn là một
phạm trù kinh tế cơ bản. Vốn sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài
sản được sử dụng đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi”.
2. Một số đặc trưng của vốn
Bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần có vốn. Trong thời kỳ bao cấp,
phần lớn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được Nhà nước cấp phát hoặc cho vay với lãi
suất thấp. Các doanh nghiệp sản xuất theo chỉ tiêu của trên đưa xuống, không được tự chủ
trong kinh doanh và ít phải chịu trách nhiệm trước hiệu quả kinh doanh nên người ta ít quan
tâm đến tính hàng hoá cũng như các đặc trưng của vốn. Nhưng khi đất nước bước sang nền
kinh tế thị trường thì vốn là yếu tố số một của mọi hoạt động kinh doanh, vốn đó không tự
nhiên mà có. Do đó, các doanh nghiệp phải biết cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả để
không những bảo toàn mà còn phát triển nguồn vốn của mình và tất yếu đòi hỏi các doanh
nghiệp phải nhận thức đầy đủ hơn những đặc trưng của vốn.
Vốn luôn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Điều đó có nghĩa là vốn được biểu
hiện dưới dạng các loại tài sản hữu hình cũng như vô hình trong doanh nghiệp như nhà
xưởng, đất đai, máy móc thiết bị, vật tư, thông tin, bằng sáng chế phát minh. Như vậy, một
lượng tiền thoát li giá trị thưc tế của hàng hoá những khoản nợ chồng chất mà không có khả
năng thanh toán thì không đúng với nghĩa của vốn.
Vốn luôn vận động và có khả năng sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền tệ là dạng
tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì tiền đó phải vận động sinh lời. Trong quá trình vân
động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng
của vòng tuần hoàn là biểu hiên giá trị bằng tiền. Đồng tiền phải quay về nơi xuất phát với
giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên lý đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn. Vì vậy, một khi đồng
vốn bị ứ đọng, tài sản cố định không được dùng đến, tài nguyên, sức lao động không được
sử dụng, tiền vàng bỏ vào ống cất trữ hoặc các khoản nợ khê đọng khó đòi... chỉ là những
đồng vốn chết. Mặt khác, tiền có vận động nhưng lại bị phân tán, không quay về nơi xuất
phát với giá trị lớn hơn thì cũng không bảo đảm duy trì và phát triển được vốn, vòng quay
tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng.
Để tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng phải tích luỹ đủ một
lượng vốn nhất định hay vốn cần phải đạt tới một giá trị đủ lớn nào đó mới có thể phát huy
tác dụng. Do vậy, các doanh nghiệp không những phải khai thác các nguồn lực về vốn nội
tại trong doanh nghiệp mà còn phải tích cực thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài thông qua
các hình thức huy động như vay vốn, góp vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
Khi nghiên cứu các đặc trưng của vốn cần phải xem xét đến giá trị thời gian của vốn.
Vì giá trị của đồng vốn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố làm cho sức mua hay giá trị của
đồng tiền tại mỗi thời điểm là khác nhau. Trong thời kỳ bao cấp Nhà nước đã tạo ra một sự
ổn định tiền tệ giả tạo nên vấn đề này không được chú ý, song với cơ chế thị trường hiện nay
và sự biến động của giá cả, lạm phát... đã làm cho giá trị đồng tiền thay đổi, do đó giá trị
thời gian của vốn cần được nhận thức đầy đủ hơn.
Vốn luôn gắn với chủ sở hữu. Hay nói cách khác hơn mỗi đồng vốn đều phải có chủ
sở hữu, không thể có đồng vốn vô chủ và ở đâu có đồng vốn vô chủ (chủ sở hữu không được
rõ ràng) thì ở đó có sự lãng phí không hiệu quả. Đồng vốn chỉ được sử dụng hiệu quả khi nó
được gắn với một loại hình chủ sở hữu thích hợp. Đây là một vấn đề của đất nước ta, chính
do sự không rõ ràng trong quy định về sở hữu mà các tài sản xã hội chủ nghĩa đang bị sử
dụng một cách lãng phí và không hiệu quả. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ quyền sở hữu và
quyền sử dụng vốn vì quyền sử dụng vốn có thể tách rời quyền sở hữu về vốn. Đây là
nguyên tắc quan trọng trong huy động và quản lý vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hoá đặc biệt, có thị trường riêng
cho loại hàng hoá này. Đó là nơi những người dư thừa vốn có thể cho vay, những người cần
vốn có thể huy động vốn từ những người dư thừa vốn và phải trả cho họ một mức lãi (giá
vốn) nhất định. ở đây có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, do đó những
người bán (người cho vay vốn) không bị mất quyền sở hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong
một thời gian nhất định. Việc trao đổi này được diễn ra trên thị trường tài chính và giá (lãi
suất) của việc mua bán cũng tuân theo quy luật cung – cầu.
Từ những đặc trưng cơ bản trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vốn trong sản
xuất kinh doanh .Nó có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp, vì chỉ khi nào các doanh
nghiệp hiểu rõ được tầm quan trọng và giá trị của đồng vốn sử dụng thì mới có thể sứ dụng
nó một cách có hiệu quả .
3. Phân loại vốn kinh doanh
Tuỳ theo cách thức quản lý vốn và loại hình của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh
nghiệp có những tiêu thức cụ thể để phân loại vốn,sau đây là một số cách phân loại vốn mà
các doanh nghiệp thường dùng:
3.1. Theo nguồn hình thành
Cách phân loại này căn cứ vào đối tượng tài trợ vốn kinh doanh cho doanh nghiệp và
theo cách phân loại này có thể chia vốn ra làm hai loại sau:
3.1.1 Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Vốn chủ sở hữu là cơ sở để đánh giá tiềm lực tài chính của một doanh nghiệp, vì đây
là cài mà doanh nghiệp thực sự có. Các nhà đầu tư như ngân hàng, những người mua trái
phiếu của công ty coi đây là khoản đặt cọc cho lượng vốn họ cho doanh nghiệp vay và thực
sự khi kinh doanh thua lỗ thì doanh nghiệp phải sử dụng vốn chủ sở hữu để trang trải mọi
khoản nợ nần. Do doanh nghiệp không phải hoàn trả nguồn vốn này trong suốt thời gian
hoạt động, nên nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn thường được sử dụng để tài trợ cho các
dự án dài hạn như mua sắm mới các tài sản cố định, đầu tư vào xây dựng nhà xưởng, đầu tư
nghiên cứu phát triển sản xuất... vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hình thành từ:
Vốn có nguồn gốc từ ngân sách: Nguồn vốn này chỉ áp dụng đối với các doanh
nghiệp Nhà nước. Nguồn này có thể do Nhà nước trực tiếp cung cấp hay do các
khoản chi phí lẽ ra phải nộp cho Nhà nước nhưng được giữ lại để doanh nghiệp đầu
tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này không lớn và chỉ ưu tiên cho những
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng được Nhà nước quan tâm.
Nguồn vốn tự bổ sung của doanh nghiệp: Là nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung mà
chủ yếu là từ các nguồn như quỹ khấu hao các loại tài sản của doanh nghiệp, quỹ phát
triển kinh doanh do phần lợi nhuận hàng năm giữ lại, nguồn tài chính do điều chỉnh
cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp, nguồn chênh lệch đánh giá được để lại ( nếu
có). Đối với doanh nghiệp nguồn vốn này có ý nghĩa rất lớn vì chỉ khi doanh nghiệp
kinh doanh có hiệu quả mới có nguồn vốn này. Nó sẽ góp phần nâng cao vị trí tài
chính của doanh nghiệp, thể hiện nội lực giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư để mở
rộng sản xuất kinh doanh.
Nguồn vốn liên doanh liên kết: Trên cơ sở nhận thấy được lợi nhuận của cơ hội kinh
doanh và sự tin tưởng lẫn nhau, các doanh nghiệp có thể hợp tác đầu tư trên cơ sở
hợp đồng liên doanh liên kết. Sự liên doanh liên kết này có thể giữa các doanh nghiệp
trong nước với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước
ngoài. Tuy nhiên, do nguồn vốn dựa trên cơ sở cùng đóng góp nên lợi nhuận phải
được phân chia giữa các bên tham gia liên doanh liên kết, do đó cần phải có sự quản
lý vốn thận trọng và hiệu quả, đặc biệt là khi liên doanh liên kết với các doanh nghiệp
nước ngoài.
Ngoài ra các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu,
trái phiếu hoặc tín dụng thuê mua.
3.1.2. Nguồn vốn đi vay
Nhìn chung nguồn vốn bên trong ( vốn chủ sở hữu) của phần lớn các doanh nghiệp
hiện nay còn nhỏ bé. Để đáp ứng nhu cầu về vốn các doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn
từ bên ngoài. Nguồn vốn đi vay được huy động thông qua hệ thông ngân hàng, các tổ chức
tín dụng hay trực tiếp từ các chủ thể cho vay khác. Hình thức vay cũng rất đa dạng, có thể là
vay ngắn hạn để bổ sung cho phần vốn lưu động thiếu phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh, hay là vay trung và dài hạn nhằm tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh
nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất hiện có. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay,
nguồn vốn này rất phổ biến và tương đối lớn, điểm nổi bật của nguồn vốn này là rất linh
động, nó đảm bao khả năng thanh toán nhanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để huy động
được nguồn vốn này, doanh nghiệp cần phải dựa trên cơ sở sản xuất kinh doanh có lãi và uy
tín trên thương trường. Doanh nghiệp phải tận dụng nguồn vốn này hiệu quả nhất và thường
xuyên nhất.
3.2. Theo vai trò và đặc điểm chu chuyển của vốn
Lúc này vốn được xem xét dưới trạng thái động nên người ta chia vốn ra làm hai loại:
vốn cố định và vốn lưu động.
3.2.1. Vốn cố định
Trong nền sản xuất hàng hoá, để mua sắm, xây dựng tài sản cố định trước hết phải có
một số vốn ứng trước. Vốn tiền tệ ứng trước để mua sắm xây dựng tài sản cố định hữu hình
hoặc những chi phí đầu tư cho những tài sản cố định vô hình được gọi là vốn cố định của
doanh nghiệp.
Vốn cố định là khoản vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, quy mô của vốn cố định
sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định. Song đặc điểm vận động của tài sản cố định lại quyết
định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Các đặc thù về sự vận động của
vốn cố định trong sản xuất kinh doanh như sau:
Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, có đặc điểm này là do tài sản
cố định có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất, vì thế vốn cố định – hình thái
biểu hiện bằng tiền của nó cũng được tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
Vốn cố định được dịch chuyển dần từng phần vào giá trị sản xuất sản phẩm. Khi
tham gia vào quá trình sản xuất giá trị của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định
cũng được tách thành hai phần: Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm (
dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng tài sản
cố định. Phần còn lại của vốn cố định “ cố định” trong tài sản.
Trong các chu kỳ sản xuất kế tiếp, nếu như phần vốn dịch chuyển được dần
dần tăng lên thì phần vốn “cố định” lại dần dần giảm đi tương ứng với mức suy giảm
dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc sự biến thiên ngược chiều đó cũng
chính là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố định đã hoàn thành một
vòng luân chuyển.
Vậy: Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, mà đặc
điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành
một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Trong các doanh nghiệp vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn kinh doanh.
Quy mô của vốn cố định cũng như trình độ quản lý và sử dụng nó, là nhân tố có ảnh hưởng
quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật. Vì vậy,việc quản lý sử dụng vốn cố định được coi
là một vấn đề quan trọng của công tác quản trị tài chính doanh nghiệp.
Muốn quản lý sử dụng vốn cố định một cách có hiệu quả thì phải sử dụng tài sản cố
định sao cho hữu hiệu. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu chủ yếu, mà
đặc diểm của nó là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài
sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được dịch chuyển
dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm của các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Việc quản lý
vốn cố định và tài sản cố định trên thực tế là một công việc phức tạp. Để giảm nhẹ khối
lượng quản lý, về tài chính kế toán người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới
hạn giá trị và thời gian sử dụng của một tài sản cố định. Thông thường một tư liệu lao động
phải đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn dưới đây thì mới được coi là tài sản cố định.
- Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên
- Có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên
Tuy nhiên, có một số tư liệu lao động riêng biệt có thể không đủ những tiêu chuẩn về
giá trị thời gian sử dụng, nhưng chúng được tập hợp theo từng tổ hợp sử dụng đồng bộ thì tổ
hợp này cũng được coi là tài sản cố định. Ngày nay do sự phát triển và mở rộng quan hệ
hàng hoá tiền tệ, cũng như sự gia tăng về nhịp độ tiến độ khoa học – kỹ thuật, mặt khác, do
tính đặc thù về đầu tư, nên đã làm xuất hiện một số khoản chi phí đầu tư mà tính chất luân
chuyển của nó tương tự như những đặc điểm luân chuyển của vốn cố định. Vì vậy, khái
niệm về tài sản cố định được mở rộng hơn: Ngoài tài sản cố định hữu hình còn có tài sản cố
định vô hình.
Để quản lý, sử dụng vốn cố định có hiệu quả, cần phải nghiên cứu các phương pháp
phân loại và kết cấu của tài sản cố định, các cách phân loại và