Con người, từ khá sớm trong lịch sử nhận thức cho đến tận hôm nay, vẫn được
nhiều học thuyết khoa học xã hội coi là chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển. Tất nhiên,
trong mỗi thời đại, con người được chú ý nghiên cứu trên các bình diện khác nhau. Đến
nay, quan điểm hiện đại về phát triển con người đã được thừa kế, bổ sung bằng nhiều nội
dung mới và được nhiều quốc gia đề cao và chú trọng thực hiện trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của mình, nhằm đạt tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
Thực ra vấn đề phát triển con người theo xu hướng hiện đại đã được C.Mác đề
cập cô đọng trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (1848). Nhưng đến cuối
thế kỷ XX, việc thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục
tiêu tối thượng của sự tiến bộ xã hội mới được các chuyên gia của Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc (UNDP) quán triệt, lượng hóa và thiết kế một thước đo chung, nhằm đánh
giá trình độ phát triển con người ở các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu về phát triển con người đòi hỏi phải
luận giải một cách toàn diện, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước. Đây là một yêu cầu cấp bách, cơ
bản và lâu dài cho chiến lược phát triển con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề là ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã
hội, và do đó, phát triển con người thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu cho việc
hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng
làm được điều này, kể cả các quốc gia phát triển có nhiều tiềm lực về kinh tế. Việc phát
triển con người có thực hiện được hay không, đạt tới mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự
phát triển về kinh tế, còn tùy thuộc vào quan điểm, chính sách và chương trình hành động
của từng quốc gia, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong điều kiện quá
trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập là xu thế tất yếu
của thế giới đương đại, các quốc gia đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn đối
với sự phát triển của mình. Theo đó, việc phát triển con người của các quốc gia cũng được
đặt trước những cơ hội và thách thức to lớn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Toàn cầu hóa mở ra những cơ hội to lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội, chẳng hạn,
làm mất công bằng xã hội, tăng nhanh khoảng cách phân hóa giàu nghèo, mở rộng rủi ro
an sinh xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống,
v.v.
69 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2529 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số quan điểm cơ bản về phát triển con
người và thực trạng của việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người, từ khá sớm trong lịch sử nhận thức cho đến tận hôm nay, vẫn được
nhiều học thuyết khoa học xã hội coi là chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển. Tất nhiên,
trong mỗi thời đại, con người được chú ý nghiên cứu trên các bình diện khác nhau. Đến
nay, quan điểm hiện đại về phát triển con người đã được thừa kế, bổ sung bằng nhiều nội
dung mới và được nhiều quốc gia đề cao và chú trọng thực hiện trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của mình, nhằm đạt tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
Thực ra vấn đề phát triển con người theo xu hướng hiện đại đã được C.Mác đề
cập cô đọng trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (1848). Nhưng đến cuối
thế kỷ XX, việc thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục
tiêu tối thượng của sự tiến bộ xã hội mới được các chuyên gia của Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc (UNDP) quán triệt, lượng hóa và thiết kế một thước đo chung, nhằm đánh
giá trình độ phát triển con người ở các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu về phát triển con người đòi hỏi phải
luận giải một cách toàn diện, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước. Đây là một yêu cầu cấp bách, cơ
bản và lâu dài cho chiến lược phát triển con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề là ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã
hội, và do đó, phát triển con người thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu cho việc
hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng
làm được điều này, kể cả các quốc gia phát triển có nhiều tiềm lực về kinh tế. Việc phát
triển con người có thực hiện được hay không, đạt tới mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự
phát triển về kinh tế, còn tùy thuộc vào quan điểm, chính sách và chương trình hành động
của từng quốc gia, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong điều kiện quá
trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập là xu thế tất yếu
của thế giới đương đại, các quốc gia đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn đối
với sự phát triển của mình. Theo đó, việc phát triển con người của các quốc gia cũng được
đặt trước những cơ hội và thách thức to lớn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Toàn cầu hóa mở ra những cơ hội to lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội, chẳng hạn,
làm mất công bằng xã hội, tăng nhanh khoảng cách phân hóa giàu nghèo, mở rộng rủi ro
an sinh xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống,
v.v...
ở Việt Nam, Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, trong bản "Tuyên ngôn
độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với thế giới về quyền được sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền cơ bản và bất khả xâm
phạm của mọi người và mọi dân tộc. Người nhấn mạnh, việc phấn đấu không ngừng để
thực hiện các quyền của con người, đó cũng là mục tiêu phấn đấu, là mục đích tối cao của
mọi hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các quyền của con người là sự kết
tinh từ những tinh hoa tiến bộ nhân loại và của truyền thống Việt Nam qua mấy ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Phát triển là của con người, do con người và vì con
người - đó là giá trị trường tồn của nhân loại và cũng là của văn hóa Việt Nam.
Trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng đến sự nghiệp giải
phóng, xây dựng và phát triển con người Việt Nam. Đặc biệt, trong 20 năm qua, bằng việc
thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập với khu vực và thế
giới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; công cuộc đổi mới toàn diện đã mở
rộng không gian phát triển đầy triển vọng cho nhân dân Việt Nam, trong đó, các cơ hội và
điều kiện cho việc phát triển toàn diện con người ngày càng được xác lập, bảo đảm và mở
rộng. Có thể nói, thành tựu nổi bật nhất của công cuộc đổi mới ở nước ta trong gần 20
năm qua là thành tựu về phát triển con người.
Chúng ta đạt được những thành tựu đó là nhờ có sự nhận thức một cách toàn diện
về vấn đề phát triển con người, coi nguồn lực con người là "giá trị quý báu nhất" và đóng
vai trò quyết định nhất; con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Trong các văn kiện của mình, Đảng ta luôn chú trọng đến việc đề ra những chính sách nhằm
phát huy có hiệu quả cao nhất nguồn lực con người. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta khẳng định: "Vì hạnh phúc của con
người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân" [10, tr. 13](1). Tại
Đại hội VIII, Hội nghị Trung ương lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,
Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh con người là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc phát triển con người ở nước trong thời kỳ vừa qua, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, cũng còn nhiều hạn chế về cả mặt nhận thức và hành động.
Bối cảnh phát triển con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay vừa có những cơ hội
mới, vừa đứng trước nhiều thách thức. Điều đó đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện,
để từ đó tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm phát triển con người, đảm bảo cho sự phát
triển nhanh và bền vững của đất nước, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới hiện nay.
Vì những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài " Một số quan điểm cơ bản về
phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay "
để làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử, có thể nói, các nhà triết học đã bàn nhiều đến vấn đề con người; các
nhà triết học đã chú ý đến khía cạnh xã hội cũng như mục tiêu của phát triển xã hội, xét
cho cùng là phát triển con người. Tuy nhiên, các nhà triết học trước C. Mác và kể cả nhiều
1 Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham
khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.
trường phái triết học hiện đại mặc dù đề cao con người, nhưng vẫn chưa đặt ra vấn đề phải
lượng hóa sự phát triển con người một cách triệt để trong thực tiễn.
Như đã biết, vấn đề phát triển con người đã được C.Mác đề cập năm 1848 trong
tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". ở đây, phát triển con người đã được C.Mác
xác định như là mục tiêu của phát triển xã hội. Khi phê phán những hạn chế của chủ nghĩa
tư bản, những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản, C. Mác khẳng định rằng chỉ có giai cấp
công nhân mới có đủ khả năng lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công cuộc cách mạng
vô sản, lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xóa bỏ mọi sự
áp bức, bóc lột, bất công, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, văn minh, tạo đầy đủ những
điều kiện cho sự phát triển toàn diện con người, trong đó, "sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [24, tr. 628]
Phấn đấu vì sự phát triển của con người là mục tiêu chung của các Đảng Cộng sản
trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề lượng hóa sự phát triển con người cùng với sự xác định nội hàm hiện đại
của khái niệm "phát triển con người" (Human development) được UNDP (United Nations
Development Programme) đưa ra vào năm 1990 trong báo cáo đầu tiên về phát triển con
người. Người đề xuất và sử dụng khái niệm này là Mahbub ul Haq, cũng trong năm này
chỉ số HDI (Human Development Index) được coi là công cụ hữu hiệu để đo chỉ số phát
triển con người và cũng từ đây hàng năm "Báo cáo phát triển con người" (Human
Development Report - HDR) của UNDP được xuất bản để đánh giá những thành tựu và
hạn chế của các quốc gia về phát triển con người, nghiên cứu những cơ hội và thách thức
cũng như trao đổi những kinh nghiệm về phát triển con người trên phạm vi thế giới vì sự
tiến bộ và văn minh của nhân loại.
Đây là vấn đề khá mới mẻ và đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu ở
các góc độ khác nhau:
- Một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về phát triển con người nhưng chủ
yếu với tính cách là nguồn nhân lực, xem xét vai trò của con người, coi con người là động
lực cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Có thể nêu một số công
trình như: "nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước" (Đoàn Văn Khái, Tạp chí Triết học, số 4 (1995); "Nghiên cứu con người,
phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi nền kinh tế
tri thức xuất hiện" của Phạm Thành Nghị, "Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện
nay" của Phạm Thanh Đức trong cuốn "Nghiên cứu con người, đối tượng và những
phương hướng chủ yếu" (2002) do Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
- Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải
phóng con người, lấy đó làm cơ sở lý luận, phương pháp luận cho nghiên cứu về sự
nghiệp giải phóng và xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam. Đó là các
công trình: "Tư tưởng về sự giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"
của Trần Hữu Tiến. Trích trong "Sống mãi với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1998), "Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người
và sự nghiệp giải phóng con người", của Bùi Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(2003)…
- Cũng có một số người đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác nhau về phát
triển con người như về chính sách y tế, giáo dục, chính sách xóa đói, giảm nghèo… từ đó
đề ra những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về phát triển con người mới. Có
thể kể ra các công trình như: "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" của Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001); "Tính tương
thích giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con người ở Việt
Nam" của Đặng Quốc Bảo, trong tạp chí Nghiên cứu con người, số 2 (2002); "Nhà nước
và sự phát triển con người trong quá trình đổi mới ở Việt Nam" của Bùi Tất Thắng trong
tạp chí Nghiên cứu con người, số 2, (2002)…
Nhìn chung, các công trình trên đều khẳng định yêu cầu phát triển con người và ý
nghĩa của việc nhận thức đúng đắn và xây dựng chính sách phát triển con người. Song, do
yêu cầu của thời đại và của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay vì
mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống các
quan điểm cơ bản về phát triển con người, phân tích thực trạng và luận chứng một số giải
pháp phát triển con người ở nước ta hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết cả về mặt lý
luận, lẫn thực tiễn. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả luận văn chọn đề tài "Một số quan
điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt
Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu trên cơ sở kế thừa giá trị của các công trình đi trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích: Bước đầu nghiên cứu một số quan điểm cơ bản về hệ vấn đề phát triển
con người, từ quan điểm của các nhà triết học trước Mác, quan điểm của C.Mác và của
quan điểm UNDP. Trên cơ sở đó, luận văn tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về phát triển
con người, đánh giá thực trạng phát triển con người ở nước ta trong thời gian qua và chỉ ra
một số nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, đồng thời, luận chứng một số giải pháp
cho phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề
sau:
- Thứ nhất, luận văn làm rõ quan niệm của một số nhà triết học trước C.Mác, quan
niệm của C.Mác và quan điểm của các nhà triết học hiện đại về phát triển con người, đặc
biệt là về phát triển con người của UNDP; phân tích, làm rõ nội hàm và phương thức
nghiên cứu định lượng về khái niệm phát triển con người của UNDP, theo đó làm rõ các
nội dung có liên quan đến sự phát triển con người ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
- Thứ hai, luận văn trình bày sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển con người; phân tích thực trạng phát triển con người ở Việt Nam trong những năm
gần đây, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của thực trạng này.
- Thứ ba, luận văn cố gắng nêu ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn
chế trong lĩnh vực phát triển con người, từ đó luận giải một số phương hướng và giải pháp
để phát triển con người Việt Nam bền vững.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng về phát triển và tiến bộ xã hội, trong đó có
phát triển con người; đồng thời, dựa vào các nguyên tắc và hệ tiêu chí đánh giá phát triển
con người của UNDP để phân tích thực trạng con người Việt Nam và các vấn đề có liên
quan.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu, thống kê... để trình bày các luận điểm của mình.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống những quan điểm về phát
triển con người trong lịch sử triết học, làm rõ quan điểm của C.Mác về phát triển con
người, ý nghĩa của quan niệm đó đối với sự nhận thức về con người và phát triển con
người trong thời đại ngày nay.
- Luận văn trình bày và làm sáng tỏ hơn quan niệm của UNDP về phát triển con
người; nội hàm của khái niệm phát triển con người, các chỉ số, các yêu cầu, điều kiện và
mục tiêu phát triển con người.
- Luận văn trình bày quan điểm của Đảng về phát triển con người ở nước ta. Trên
cơ sở quan điểm của Đảng và của UNDP, luận văn đánh giá thực trạng phát triển con
người ở nước ta hiện nay, phân tích nguyên nhân của những mặt chưa làm được trong
phát triển con người; đồng thời, bước đầu luận giải một số phương hướng và giải pháp
nhằm để phát triển toàn diện, bền vững con người Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển con người, đặc
biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của UNDP và của Đảng, giúp nhận thức sâu
sắc hơn về mục tiêu phát triển con người của nhân loại và của Việt Nam hiện nay, thông
qua đó thấy được chương trình và mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và của cả dân
tộc vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đó là của con người, do con người,
vì sự giải phóng và phát triển của chính bản thân con người.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về vấn đề con người. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các nhà quản lý trong việc đề ra các chính sách phát triển con người.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nó đã được quan
tâm ngay từ thời kỳ sơ khai của loài người. Đặc biệt, khoa học triết học đã nghiên cứu con
người ở mức độ khái quát nhất và sớm nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, không phải ngay từ
thời cổ đại người ta đã có quan điểm đúng đắn về con người và càng chưa bàn đến vấn đề
phát triển con người. Chỉ đến khi nền triết học đã phát triển rất cao, vấn đề phát triển con
người mới được đánh giá một cách tương đối hệ thống, đầy đủ. Điều này thể hiện rõ nét
qua lịch sử phát triển của triết học.
1.1. Quan điểm phát triển con người trong lịch sử triết học trước Mác
Khi nghiên cứu vấn đề con người, triết học phương Đông, điển hình là triết học ấn
Độ và Trung Quốc cổ - trung đại, cũng mới chỉ đạt đến trình độ thừa nhận con người có
phần xác và phần hồn. Phần lớn các quan điểm đều cho rằng, đối với con người, "phần
xác" có thể chết, mất đi, nhưng "phần hồn" vẫn tồn tại. Điển hình như quan điểm của các
trường phái chính thống của triết học ấn Độ. Sự hình thành và phát triển các tư tưởng về
con người của triết học ấn Độ cổ - trung đại gắn với quan niệm tôn giáo. Con người chỉ
phát triển trong khuôn khổ của sự chi phối của các lực lượng thần thánh, siêu nhiên. Tư
tưởng "giải thoát" con người khỏi những đau khổ trầm luân của Phật giáo, tuy nhuốm màu
sắc tôn giáo, song ít nhiều cũng thể hiện sự quan tâm đối với vấn đề phát triển con người.
Thành ra, ở giai đoạn này, việc phát triển con người được luận giải theo hướng duy tâm,
chỉ là sự giải thoát về mặt "linh hồn" và phát triển là sự giải thoát của linh hồn cá thể khỏi
thể xác, trở về với linh hồn tối cao (Kinh Vêda), về thế giới bên kia, hay với cõi Niết bàn
của đức Phật.
Lấy con người làm trung tâm cho học thuyết của mình, triết học Trung Quốc cổ -
trung đại, với các đại biểu như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử… đã chú ý nghiên cứu số
phận của con người và con đường giải phóng, phát triển cho con người. Tuy nhiên, hầu
hết các trường phái triết học đều dừng lại ở chỗ coi đời sống con người, sự phân chia đẳng
cấp, giàu nghèo, sang hèn... là do "thiên mệnh", con người không nên và không thể thoát
khỏi, cưỡng lại được "mệnh trời". Mọi cố gắng của con người nhằm thoát khỏi sự an bài
trong hiện thực là vô ích.
Bên cạnh các quan điểm duy tâm, tôn giáo về vấn đề con người và phát triển con
người, ở ấn Độ và Trung Quốc cổ - trung đại còn có một số quan điểm tiến bộ khi nhìn nhận
con người một cách duy vật (Phái Lokayata, phái Âm dương - Ngũ hành...), coi tính người
là do rèn luyện, do giáo dục mà nên...
Trong lịch sử triết học phương Tây trước Mác, vấn đề con người, bản chất con
người và việc giải phóng, phát triển con người cũng được đặt ra khá phong phú.
Phần lớn các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại đều đề cao vai trò của con
người. Prôtagora đã coi con người là thước đo của mọi vật đang tồn tại và lần đầu tiên,
ông đưa ra quan niệm về quyền bình đẳng giữa người với người, khẳng định thượng đế
tạo ra mọi người đều là người tự do, tự nhiên không ai biến thành nô lệ cả, con người
được tự do phát triển về mọi mặt. Arixtốt coi con người là một động vật chính trị, một
sinh vật xã hội được cố kết trong một cộng đồng người, trong một xã hội nhất định, "ông
cho rằng, để con người phát triển được thì xã hội có nhiệm vụ bảo đảm công lý cho người
dân, đảm bảo đời sống vật chất cho mỗi gia đình và người dân phải có nghĩa vụ đối với xã
hội. Tuy có sự hạn chế về mặt lịch sử và giai cấp, song các nhà triết học Hy Lạp - La Mã
đã đưa ra một số quan điểm tiến bộ về vấn đề con người và phát triển con người. Đó là
những cơ sở để các nhà triết học sau này tiếp tục phát triển.
Dưới sự thống trị khắc nghiệt của nhà thờ Ki tô giáo, các trường phái triết học
Tây Âu đều bị thần học chi phối, hầu hết các quan điểm chứng minh sự tồn tại của
Thượng đế, sự tồn tại của chế độ đẳng cấp là sự tồn tại hợp lý do sự quy định của Thượng
đế. Các trào lưu triết học thời kỳ này đều cho rằng, con người là sản phẩm của thượng đế
và Thượng đế có vai trò tối cao đối với đời sống của con người. Giăngxicốt Ơrrgiennơ cho
rằng, con người không có tự do mà sự tự do của con người chỉ có được khi trở về "thế giới
bên kia" và chỉ có thượng đế là tự do tuyệt đối, còn con người không có quyền tự do định
đoạt cuộc sống của mình.
Sang thời kỳ Phục hưng và Cận đại, phương thức sản xuất tư