Lịch sử nền kinh tế nước ta thực sự sang trang mới từ khi nền kinh tế chuyển đổi
hoàn toàn sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước đánh dấu cho việc mở rộng quyền tự do kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Đặc biệt là sau hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ hai tổ chức tại Hà Nội năm
1999 cùng với việc Việt Nam hoà nhập với cộng Đồng ASEAN là thành viên của
APEC, gần đây là hiệp Định thương mại Việt - Mỹ được hai nước thông qua cùng với
xu hướng toàn cầu hoá đang tới gần....nó đã tạo ra những cơ hội và thách thức mới cho
các doanh nghiệp Việt Nam. Tính cạnh tranh gay gắt trên quy mô toàn cầu, khiến các
doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng và đưa chất lượng là một
chiến lược quan trọng của Công ty. Trong đó việc tiến hành nghiên cứu và áp dụng các
hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến phù hợp với yêu cầu chất lượng của khu vực và
trên thế giới. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là một trong những mô hình đó.
Công ty Điện tử Hà Nội (HANEL) là một doanh nghiệp Nhà nước được hình
thành phát triển trong nền kinh tế thị trường nên đã sớm nhận thức được vai trò của
cạnh tranh tính chất quyết liệt của nó đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Vai
trò của chất lượng và mối quan hệ chặt chẽ giữa chất lượng với khả năng cạnh tranh của
Công ty cũng được nhận thức một cách đầy đủ hơn nhờ đó Công ty đã tạo lập được vị
trí của mình trên thị trường khó tính nhất.
Sau một thời gian nghiên cứu triển khai và áp dụng thành công hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 : 1994 nhằm nâng cao công tác quản lý chất lượng
của Công ty, tăng ưu thế khả năng cạnh tranh, thoả mãn nhu cần càng ngày càng cao
của khách hàng.
Ngày 25/12/2000 Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 : 2000 đã chính thức được tổ chức tiêu
chuẩn hoá ISO ban hành với một số nội dung được sửa đổi và bổ sung và theo quy định
thì hiệu lực của tiêu chuẩn ISO 9000 : 1994 sẽ chấm dứt cho đến ngày 24/12/2003.
Sau thời gian tìm hiểu tại Công ty và nhận thấy tần quan trọng của việc chuyển
đổi hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 phiên bản 1994 sang phiên
bản 2000, tôi đã chọn đề tài “Một số vấn đề của việc chuyển đổi hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 : 1994 sang phiên bản 2000 tại Công ty điện
tử Hà Nội
79 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2077 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề của việc chuyển đổi hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 - 1994 sang phiên bản 2000 tại Công ty điện tử Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số vấn đề của việc chuyển đổi hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 : 1994
sang phiên bản 2000 tại Công ty điện tử Hà Nội
Lời nói đầu.
Lịch sử nền kinh tế nước ta thực sự sang trang mới từ khi nền kinh tế chuyển đổi
hoàn toàn sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước đánh dấu cho việc mở rộng quyền tự do kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Đặc biệt là sau hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ hai tổ chức tại Hà Nội năm
1999 cùng với việc Việt Nam hoà nhập với cộng Đồng ASEAN là thành viên của
APEC, gần đây là hiệp Định thương mại Việt - Mỹ được hai nước thông qua cùng với
xu hướng toàn cầu hoá đang tới gần....nó đã tạo ra những cơ hội và thách thức mới cho
các doanh nghiệp Việt Nam. Tính cạnh tranh gay gắt trên quy mô toàn cầu, khiến các
doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng và đưa chất lượng là một
chiến lược quan trọng của Công ty. Trong đó việc tiến hành nghiên cứu và áp dụng các
hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến phù hợp với yêu cầu chất lượng của khu vực và
trên thế giới. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là một trong những mô hình đó.
Công ty Điện tử Hà Nội (HANEL) là một doanh nghiệp Nhà nước được hình
thành phát triển trong nền kinh tế thị trường nên đã sớm nhận thức được vai trò của
cạnh tranh tính chất quyết liệt của nó đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Vai
trò của chất lượng và mối quan hệ chặt chẽ giữa chất lượng với khả năng cạnh tranh của
Công ty cũng được nhận thức một cách đầy đủ hơn nhờ đó Công ty đã tạo lập được vị
trí của mình trên thị trường khó tính nhất.
Sau một thời gian nghiên cứu triển khai và áp dụng thành công hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 : 1994 nhằm nâng cao công tác quản lý chất lượng
của Công ty, tăng ưu thế khả năng cạnh tranh, thoả mãn nhu cần càng ngày càng cao
của khách hàng.
Ngày 25/12/2000 Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 : 2000 đã chính thức được tổ chức tiêu
chuẩn hoá ISO ban hành với một số nội dung được sửa đổi và bổ sung và theo quy định
thì hiệu lực của tiêu chuẩn ISO 9000 : 1994 sẽ chấm dứt cho đến ngày 24/12/2003.
Sau thời gian tìm hiểu tại Công ty và nhận thấy tần quan trọng của việc chuyển
đổi hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 phiên bản 1994 sang phiên
bản 2000, tôi đã chọn đề tài “Một số vấn đề của việc chuyển đổi hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 : 1994 sang phiên bản 2000 tại Công ty điện
tử Hà Nội”
Phần I
Những vấn đề chung về quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO 9000.
I. Lịch sử phát triển của quản lý chất lượng
Những nguyên tắc về kiểm tra đã xuất hiện ở một số nước từ thời cổ đại, chẳng
hạn ở Ai Cập trong việc xây dựng các Kim Tự Tháp, tuy nhiên các khái niệm hiện đại
về hệ thống chất lượng, về quản lý chất lượng thì chỉ mới xuất hiện trong khoảng 50
năm qua. Có thể nói sự phát triển của quản lý chất lượng đã trải qua một quá trình lâu
dài trong nhiều thế kỷ, từ những hình thức giản đơn sơ khai đến phức tạp, từ thấp tới
cao, từ hẹp tới rộng, từ thuần tuý kinh nghiệm chủ nghĩa tới cách tiếp cận khoa học, từ
những hoạt động có tính chất riêng lẻ cục bộ tới sự phối hợp toàn diện, tổng thể, có tính
hệ thống.
Về các giai đoạn phát triển của quản lý chất lượng, các chuyên gia chất lượng ở
các nước còn sự phân chia khác nhau với các mốc thời gian khác nhau. Chẳng hạn, có
người cho rằng kiểm tra sản xuất phát triển từ sau cuộc cách mạng công nghiệp (Claude
Lienard, APAVE Lyonnaise), có người cho rằng phương thức kiểm tra tại công xưởng
đẫ bắt đầu từ thời kỳ công trường thủ công (Glitchôp). Theo Feigenbaum trong cuốn
Total Quality Control tái bẳn năm 1983 thì SQC xuất hiện năm 1960, nhưng theo
Harrison M. Wadsworth, Kenneth S. Stephens và A. Blanton Godfrey trong cuốn “Các
phương pháp hiện đại để điều khiển chất lượng và cải tiến chất lượng” và một số tài liệu
khác thì SQC xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ này. Tuy có sự khác biệt này nọ,
nhưng nhưng xu hướng chung thì thường có sự trùng khớp. Về đại thể có thể phân chia
sự phát triển quản lý chất lượng từ những hoạt động sơ khai tới trình độ hiện đại ngày
nay theo các giai đoạn như:
- Quản lý chất lượng bằng kiểm tra.
- Quản lý chất lượng bằng điều khiển.
- Quản lý chất lượng bằng đảm bảo.
- Quản lý chất lượng cục bộ.
- Quản lý chất lượng toàn diện theo quan điểm hệ thống.
Giai đoạn quản lý chất lượng bằng kiểm tra xuyên suốt nhiều thiên niên kỷ và
còn tồn tại đến ngày nay. Các giai đoạn còn lại là con để của thế kỷ 20, những thời kỳ
của chúng còn có thể nối tiếp nhau, có thể xuất hiện đồng thời hoặc không theo một
trình tự nhất định, có khi xuất hiện ở nước này nhưng lại được ứng dụng và phát triển
mạnh mẽ ở nước khác v.v...
1. Quản lý chất lượng bằng kiểm tra.
Kiểm tra là một chức năng của quản lý và được con người dùng đến từ thời xa
xưa, khi quản lý sản xuất còn chưa tách ra thành một chức năng riêng biệt của quá trình
lao động. Những hình thái sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa là những nền sản xuất nhỏ,
dựa trên sản xuất cá thể hoặc gia đình. Người thợ thủ công cá thể thường tự làm tất cả
mọi công việc, từ khâu tìm nguyên liệu đến khâu chế tạo ra sản phẩm, tự quản lý mọi
sản phẩm của mình cho đến khí mang hàng của mình ra thị trường (chợ) để trao đổi
hoặc để bán. Nếu sản phẩm của anh ta không ai muốn trao đổi hoặc muốn mua, anh ta
phải tự nghĩ, tự giải thích, tự chấp nhận trên trị trường. Để làm việc này anh ta phải
khẳng định quy cách chất lượng sản phẩm của mình, chế tạo đúng như yêu cầu đã đựơc
đề ra và tự kiểm tra xem sản phẩm của mình làm ra có đạt được yêu cầu hay không.
Thời kỳ này có thể gọi là thời kỳ kiểm tra sản xuất bởi người trực tiếp sản xuất. Người
sản xuất ở đây có thể là thợ thủ công, có thể là người chủ gia đình cùng vợ con tạo
thành một nhóm sản xuất, người chủ gia đình giữ vai trò ông chủ sản xuất. Ông chủ này
vừa trực tiếp sản xuất, vừa trực tiếp làm vai trò quản lý sản xuất, trong đó có việc tự
kiểm tra xem hàng làm ra có đáp ứng được yêu cầu của khách hàng không. Có thể nói
đây là thời kỳ manh nha, thô sơ nhất của kiểm tra chất lượng, bước đầu tiên trên con
đường thiên lý tới quản trị chất lượng.
Bước sang giai đoạn công trường thủ công và thời kỳ đầu của cuộc cách mạng
công nghiệp, quá trình chuyên môn hoá, hợp tác hoá được phát triển, máy móc được sử
dụng ngày càng nhiều, năng suất lao động tăng gấp nhiều lần so với lao động thủ công,
quy mô sản xuất được mở rộng, các ông chủ phải phân quyền cho các đốc công và các
trưởng xưởng. Đó là thời kỳ kiểm tra sản xuất bằng các đốc công. Những người lãnh
đạo trung gian này vừa quản lý sản xuất trong những lĩnh vực thuộc phạm vi anh phụ
trách, vừa phải trực tiếp kiểm tra các sản phẩm do công nhân làm ra xem có phù hợp với
yêu cầu đề ra hay không.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và lớn rộng của cuộc cách mạng công nghiệp ở
thế kỷ XVIII, các vấn đề kỹ thuật và các hình thức tổ chức ngày càng phức tạp làm cho
ý nghĩa của vấn đề chất lượng ngày càng được nâng cao. Chức năng quản lý sản xuất
trở thành một chức năng riêng biệt, bộ máy quản lý chia ra thành nhiều bộ phận chuyên
môn và hoàn thiện sản xuất, quản lý sức lao động và tổ chức lao động, quản lý công
việc hàng ngày, kiểm tra sản xuất... Đó là thời kỳ chức năng kiểm tra tách ra khỏi sản
xuất do những người chuyên trách đảm nhiệm. Trong các xí nghiệp bắt đầu hình thành
những phòng kiểm tra kỹ thuật với chức năng phát triển các khuyết tật của sản phẩm và
chỉ cho đưa ra thị trường những sản phẩm đạt yêu cầu. Hình thức này được phát triển
rộng rãi suốt thế kỷ XIX và sang cả thế kỷ XX. Việc chuyên môn hoá chức năng kiểm
tra đã mang lại kết quả tốt hơn so với các hình thức kiểm tra trước đó. Tuy nhiên nó chỉ
phát hiện được sai lỗi mà không ngăn chặn được tận gốc rễ các vấn đề, đồng thời nó lại
tạo nên tâm lý sai lầm là trách nhiệm về chất lượng thuộc về phòng kiểm tra.
2. Quản lý chất lượng bằng điều khiển (kiểm soát) và đảm bảo.
Điều khiển chất lượng (kiểm soát chất lượng) và đảm bảo chất lượng là những
phương pháp của quản lý chất lượng xuất hiện trong nửa đầu của thế kỷ
XX và trở thành những thành phần quan trọng của quản lý chất lượng hiện đại.
Khác với kiểm với chức năng chính là phát hiện, những phương pháp mới này
mang tính chất phòng ngừa theo nguyên tắc: phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Từ giữa những năm 20 cho tới giữa thế kỷ XX, các hoạt động tiêu chuẩn hoá,
điều khiển chất lượng (Quality Control - QC) và đảm bảo chất lượng được phát triển
mạnh ở Mỹ với những chuyên gia dẫn đầu về quản lý chất lượng như Walter A.
Shewhart, Joseph M. Juran, W. Edwards Deming v.v... Có thể nói nước Mỹ là nước đi
đầu trong việc hình thành cơ sở lý thuyết và thực hành về quản lý chất lượng và giữ vai
trò chủ chốt trong nửa đầu thế kỷ XX về quản lý chất lượng trên thế giới.
3. Quản lý chất lượng cục bộ và tổng hợp
Những quan niệm mới về triển khai chức năng đảm bảo chất lượng được phát
triển và hoàn thiện cho tới ngày nay. Nhiều quan niệm đã nảy sinh như một phản ứng
trước những quan niệm tương tự về chất lượng ở Nhật. Các quan niệm này đều gặp
nhau ở chỗ nhấn mạnh nhu cầu đảm bảo chất lượng cho mọi nhân viên trong một tổ
chức. A.V Feigenbaum là người đầu tiên đã đưa ra thuật ngữ điều khiển chất lượng tổng
hợp (Total Quanlity Control - TQC) khi ông còn làm việc ở công ty General Electric.
Trong cuốn sách Total Quality Control (xuất bản năm 1951, tái bản các năm 1961 và
1983) ông đã phân tích rằng trách nhiệm quản lý chất lượng là thuộc về mọi phòng ban,
chứ không chỉ là trách nhiệm riêng của phòng chất lượng. Tuy nhiên trong nhiều năm tư
tưởng này đã bị sao lãng ở Mỹ và chỉ đến khi chất lượng hàng hoá của Nhật vươn lên
dẫn đầu thế giới vào cuối những năm 70, các kỹ sư Mỹ mới “tái phát hiện” lại những ý
tưởng của Feigenbaum để phổ cập trong các công ty Mỹ.
Nếu như trong nửa đầu thế kỷ 20, quản lý chất lượng dược phát triển mạnh ở Mỹ
và các nước phương Tây thông qua các hoạt động kiểm tra chất lượng, điều khiển chất
lượng, đảm bảo chất lượng thì trong nửa sau thế kỷ 20 hoạt động quản lý chất lượng đã
dần mang tính hệ thống, tính đồng bộ, đi từ cục bộ tới tổng hợp dẫn đến việc hình thành
các hệ thống chất lượng, tạo nên một bước phát triển mới về chất lượng trong hoạt động
quản lý chất lượng ở nhiều nước trên thế giới.
Mỹ là nước dẫn đầu về quản lý chất lượng trong nửa đầu thế kỷ 20 đã phải
nhường bước cho Nhật từ những năm 70 và vị trí này còn có thể thay đổi trong những
thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Có thể nói “Quản lý chất lượng” với tên gọi ban đầu của nó là “điều khiển chất
lượng” (QC) là “phát minh” của người Mỹ, thuật ngữ Total Quality Control (TQC) cũng
do người Mỹ đặt ra nhưng từ sau đại chiến thế giới 2 người Nhật đã nhanh chóng học
tập và rút ra được những điều bổ ích nhất đối với mình, đã thực hiện một cách sáng tạo
vào điều kiện thực tiễn của đất nước mình qua đó đã tạo nên “phương thức quản lý chất
lượng kiểu Nhật”, đưa ngành công nghiệp Nhật Bản đi lên bằng con đường chất lượng,
từ một vị trí thấp kém về chất lượng đã vươn lên dẫn đầu thế giới về chất lượng. Đây là
bài học bổ ích cho chúng ta trong việc tiếp thu những thành tựu tiên tiến của nước ngoài
để đuổi kịp và vượt những người đi trước: Nỗ lực học tập và ứng dụng nhưng không
dập khuôn một cách máy móc mà phải luôn phân tích, sáng tạo theo điều kiện, hoàn
cảnh của mình để tìm ra được con đường đi thích hợp sao cho có thể đuổi kịp và hội
nhập vào cộng đồng thế giới trong một thời gian tương đối ngắn.
Các chuyên gia đầu đàn về chất lượng như Deming, Juran, Feigenbaum,
Ishikawa, Taguchi, đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc hoàn thiện các phương
pháp quản lý chất lượng theo hướng hệ thống hoá, đồng bộ hoá, tạo điều kiện để thiết
lập nên các hệ thống chất lượng, thoạt đầu áp dụng trong phạm vi từng xí nghiệp sau
khái quát thành những mô hình chung trọng phạm vi quốc gia, dần mở rộng quan hệ
phạm vi quốc tế trong những thập niên cuối của thế kỷ XX này. Xuất hiện thuật ngữ
quản lý chất lượng tổng hợp (Total Quality Management -TQM) bao trùm các khái
niệm điều khiển, đảm bảo và cải tiến chất lượng như ta hưởng ngày nay.
II. Những khái niệm liên quan đến chất lượng hệ thống chất lượng.
1.Các quan niệm về chất lượng.
Ngày nay trên thế giới đang tồn tại khá nhiều khái niệm về chất lượng các khái
niệm này không hoàn toàn đồng nhất giống nhau do các tác giả đứng trên các góc độ
khác nhau để xem xét. Sau đây là một số khái niệm cơ bản về chất lượng.
+Theo tổ chức kiểm tra chất lượng châu âu (Europea organiZition for Quality
control)
“chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng”.
Theo từ điển Việt Nam :
“chất lượng là cái tạo nên phẩm chất giá trị con người, sự vật hoặc sự việc là cái
tổng thể tính chất thuộc tính cơ bản của sự vật cái làm sự vật này khác với sự vật khác”.
Theo Philip. B. Crosby:
“chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu ”
Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đã đưa ra định nghĩa về chất lượng
trong bộ tiêu chuẩn ío 8402: 1986 “chất lượng là một tập hợp các đặc tính và đặc trưng
của sản phẩm tạo ra cho nó khả năng thoả mãn những yêu cầu đã được nêu ra hoặc tiềm
ẩn”.
Định nghĩa này đã bác bỏ định nghĩa muốn đưa ra sự phân cấp chất lượng “mức
chất lượng” và cũng muốn xoá tan nhận thức cho rằng chất lượng là nói đến cái tốt đẹp
cái cao nhất hoặc tốt nhất.
Theo ISO 8402: 1994:
“chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một thực thế tạo cho thực thế đó khả
năng thoả mãn các nhu cầu đã công bố hoặc tiềm ẩn”.
Định nghĩa này không giả thích rõ nhưng cũng đề cập đầy đủ các đặc điểm đối
với một tuyên bố về chất lượng.
Những đặc điểm này bao gồm:
+ Đáp ứng vựơt mức mong đợi của khách hàng.
+ Phù hợp với các yêu cầu điều lệ hay luật định.
+ Phù hợp với quy định kỹ thuật của khách hàng.
+ Có khía cạnh vượt trội các đối thủ cạnh tranh
Để mang lại những giải thích rõ ràng dễ hiểu hơn nằm tạo thuận lợi cho các tổ
chức trong quá trình áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000: 2000, đã đưa ra định nghĩa chất
lượng.
“chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu
cầu”.
Trong đó các yêu cầu được hiểu là :
-“Nhu cầu mong đợi đã được công bố ngầm hiểu hay bắt buộc”.
- “Đặc tính là đặc trưng để phân biệt .”
Qua các khái niệm trên ta có thể nêu ra ba đặc điểm chung cơ bản sau đây của
chất lượng :
+ Chất lượng là một tập hợp các chỉ tiêu, những đặc trưng thể hiện tính năng kỹ
thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm.
+ Chất lượng phải được thể hiện trong tiêu dùng và phải được xem xét sản phẩm
thoả mãn được tới mức nào của thị trường.
+ Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện tiêu dùng cụ thể của thị
trường về mặt kinh tế kỹ thuật xã hội và phong tục.
Chất lượng là đặc trưng cho sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng vì vậy sản
phẩm hay dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu khách khàng thì bị coi là không
chất lượng cho dù trình độ công nghệ sản xuất có hiện đại đến đâu đi nữa.
2.Khái niệm về quản lý chất lượng.
Nếu mục đích cuối cùng của chất lượng là thoả mãn nhu cầu của khách hàng thì
quản lý chất lượng là tổng thể của những biện pháp kinh tế-kỹ thuật, hành chính tác
động lên toàn bộ quá trình hành động của một tổ chức để đạt được một mục đích đó với
chi phí xã hội thấp nhất. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào quan điểm nhìn nhận khác nhau của
người nghiên cứu, tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng nền kinh tế mà người ta đưa ra
những khái niệm khác nhau về quản lý chất lượng . Sau đây tôi xin trình bày một số
khái niệm của những chuyên gia chất lượng hàng đầu thế giới thuộc những nền kinh tế
khác nhau.
+Theo Joseph Juran: quản lý chất lượng là quá trình triển khai đánh giá, đo
lương chất lượng thực tế đạt được, so sánh nó với các tiêu chuẩn và tiến hành các hành
động khắc phục.
+Theo armand Faygenbaun:Quản lý chất lượng là một hệ thống các hoạt động
thống nhất, có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong một tổ chức chịu trách
nhiệm triển khai các tham số chất lượng, duy trì mức chất lượng đã đạt được và nâng
cao nó để đảm bảo sản xuất và tiêu dùng sản phẩm một cách kinh tế nhất, thoả mãn nhu
cầu của người tiêu dùng.
+Theo Kaoru ishikawa: Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp công nghệ
sản phẩm, tạo điều kiện sản xuất kinh tế nhất những sản phẩm hoặc dịch vụ có chất
lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng.
+Theo Philip B. Crosby: Quản lý chất lượng là một phương tiện có tính chất hệ
thống, đảm bảo việc tôn trọng tổng thể tất cả các thành phần của kể hoạch hành động.
Nhìn chung, một khái niệm quản lý chất lượng đầy đủ phải trả lời được bốn câu
hỏi sau:
Mục tiêu của quản lý chất lượng là gì? Phạm vi và đối tượng quản lý chất lượng
? Chức năng và nhiệm vụ của quản lý chất lượng? Thực hiện quản lý chất lượng bằng
biện pháp và phương tiện nào?
+Theo ISO 9000.
Tiếp thu một cách sáng tạo một luồng tư tưởng, kinh nghiệm thực hành hiện đại
dựa trên cách tiếp cận khoa học, hệ thống, tổ chức tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO) đã định
nghĩa: quản lý chất lượng là hoạt động phối hợp với nhau để điều hành và kiểm soát
một tổ chức về mặt chất lượng.
Điều hành và kiểm soát về mặt chất lượng bao gồm việc thiết lập chính sách chất
lượng , hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến
chất lượng.
Chính sách chất lượng: ý đồ và định hướng chung của một tổ chức về chất
lượng do lãnh đạo cao nhất chính thức đề ra.
Hoạch định chất lượng: Một phần trong quản lý chất lượng, tập trung vào việc
lập ra các mục tiêu chất lượng và xác định các quá trình hoạt động và các nguồn lực cần
thiết để thực hiện mụcc tiêu chất lượng.
Kiểm soát chất lượng: Là một phần trong quản lý chất lượng,tập trung vào việc
đáp ứng các yêu cầu chất lượng.
Kiểm tra chất lượng: Là hoạt động đánh giá sự phù hợp thông qua việc đo, xem
xét, thử nghiệm, địng cỡ một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với
yêu cầu nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính.
Đảm bảo chất lượng: Là một phần trong quản lý chất lượng,tập trung vào việc
tạo niềm tin rằng các yêu cầu chất lượng đã được thực hiện.
Cải tiến chất lượng: Là một phần của hoạt động quản lý chất lượng,tập trung
vào việc tăng hiệu lực và hiệu quả.
Khái niệm về quản lý chất lượng của ISO 9000 nhấn mạnh quản lý chất lượng là
trách nhiệm của tất cả các cấp quản lý, nhưng trách nhiệm cao nhất thuộc về cán bộ lãnh
đạo và việc quản lý chất lượng phải được mọi thành viên trong tổ chức thực hiện.
3. Khái niệm về mô hình quản lý chất lượng
Quản lý chất lượng được nhìn nhận một cách toàn diện trên cơ sở quản lý chất
lượng công việc ở từng giai đoạn, từng người từ khâu marketing, thiết kế, sản xuất,
phân phối đến dịch vụ sau bán. Quá trình đó được mô tả dưới dạnh sơ đồ hay còn gọi là
mô hình quản lý chất lượng. Dưới dạng tổng quát nhất, có thể nêu khái niệm về mô hình
quản lý chất lượng như sau:
Mô hình quản lý chất lượng là một tập hợp dưới dạng sơ đồ các yếu tố, các giai
đoạn và các biện pháp đảm bảo chất lượng, mối quan hệ hữu cơ ( bố cục) giữa chúng
nhằm hình thành và đảm bảo chất lượng tối ưu trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm và
phù hợp với quan điểm về quản lý chất lượng đã lựa chọn.
Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của tựng doanh nghiệp, đặc trưng cơ cấu ngành
hàng, trình độ phát triển cũng như chiến lược phát triển tương lai của nó, mà các mô
hình quản lý chất lượng có mức độ phức tạp khác nhau dưới dạng như KCS, mô hình
thống kê chất lượng ( SPC), đến vòng xoắn cải tiến và đổi mới; vòng tròn chất lượng,
hình tháp chất lượng hay sơ đồ khối phản ánh mối quan hệ giữa các yếu tố và các bộ
phận khác nhau trong toàn bộ hệ thống chất lượng. Ví dụ: Mô hình vòng tròn chất lượng
cho thấy chất lượng được hình thành và có liên quan đến mọi yếu trong suốt chu kỳ
sống của sản phẩm,nhóm chất