Từ sau chiến tranh trở lại đây nền kinh tế của Việt Nam đã được khôi phục và đang 
từng bước trên con đường phát triển. Việt Nam là một nước đi sau, được kế thừa các thành 
tựu khoa học, các kinh nghiệm một cách có chọn lọc, đây là một điều kiện thuận lợi để có 
thể phát triển tiến xa hơn với các cường quốc năm Châu.
Phát triển nền kinh tế  đất nước trong hệ thống nền kinh tế toàn cầu là vấn  đề bức 
xúc được đặt ra  đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi  đơn vị.  Đây là vấn  đề rất phức tạp  được 
đặt ra và luôn phải giải quyết một cách hợp lý nhất. Một tất yếu khách quan  đặt ra là, 
muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải hoàn thiện, khai thác triệt để nhiều yếu tố trong 
hệ thống kinh tế. Các yếu tố này có liên quan đến nhau một cách chặt chẽ và mang tính hai 
chiều. Điển hình như yếu tố về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế. Đây là một yếu tố 
quan trọng nó  đóng vai trò như là một xuất phát  điểm  để giải quyết các vấn  đề khác. Phát 
triển nguồn nhân lực có thể nói là vấn đề quyết định trong công việc phát triển nền kinh tế 
đất nước, đưa đất nước quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Do đó việc nâng cao hiệu quả công 
tác phát triển nguồn nhân lực là một yêu cầu đặt ra đối với các cấp, các ngành, các đơn vị.
Đề tài: “Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch” 
nhằm mục  đích đánh giá phần nào hiệu quả công tác phát triển nguồn nhân lực và một số 
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển nguồn nhân lực huyện Lập Thạch.
Phạm vi nghiên cứu của  đề tài là lấy cơ sở thực tiễn, các hoạt  động của công tác 
phát triển nguồn nhân lực huyện Lập Thạch, với các hiệu quả đạt được và các bất cập xung 
quanh một số vấn đề liên quan đến công tác này.
Phương pháp nghiên cứu:  Đề tài  đã  được nghiên cứu bằng một số phương pháp cơ 
bản như: phương pháp phân tích đa dạng, phương pháp thống kê, tổng hợp, kết hợp với số 
liệu khảo sát và thống kê báo cáo thông qua thực tế của các giai  đoạn  để từ  đó đưa ra các
hình thức so sánh và các ý kiến về công tác phát triển nguồn nhân lực huyện.
Nội dung của đề tài bao gồm 4 phần:
Phần I: 
Lý luận chung về vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Phần II:  
Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch.
Phần III: 
Các giải pháp cho vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong huyệnLập Thạch.
Phần IV: 
Kết luận.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 61 trang
61 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2112 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Một số ý kiến về phát triển nguồn 
nhân lực trong huyện Lập Thạch 
Lời nói đầu 
Từ sau chiến tranh trở lại đây nền kinh tế của Việt Nam đã được khôi phục và đang 
từng bước trên con đường phát triển. Việt Nam là một nước đi sau, được kế thừa các thành 
tựu khoa học, các kinh nghiệm một cách có chọn lọc, đây là một điều kiện thuận lợi để có 
thể phát triển tiến xa hơn với các cường quốc năm Châu. 
 Phát triển nền kinh tế đất nước trong hệ thống nền kinh tế toàn cầu là vấn đề bức 
xúc được đặt ra đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi đơn vị. Đây là vấn đề rất phức tạp được 
đặt ra và luôn phải giải quyết một cách hợp lý nhất. Một tất yếu khách quan đặt ra là, 
muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải hoàn thiện, khai thác triệt để nhiều yếu tố trong 
hệ thống kinh tế. Các yếu tố này có liên quan đến nhau một cách chặt chẽ và mang tính hai 
chiều. Điển hình như yếu tố về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế. Đây là một yếu tố 
quan trọng nó đóng vai trò như là một xuất phát điểm để giải quyết các vấn đề khác. Phát 
triển nguồn nhân lực có thể nói là vấn đề quyết định trong công việc phát triển nền kinh tế 
đất nước, đưa đất nước quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Do đó việc nâng cao hiệu quả công 
tác phát triển nguồn nhân lực là một yêu cầu đặt ra đối với các cấp, các ngành, các đơn vị. 
 Đề tài: “Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch” 
nhằm mục đích đánh giá phần nào hiệu quả công tác phát triển nguồn nhân lực và một số 
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển nguồn nhân lực huyện Lập Thạch. 
 Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lấy cơ sở thực tiễn, các hoạt động của công tác 
phát triển nguồn nhân lực huyện Lập Thạch, với các hiệu quả đạt được và các bất cập xung 
quanh một số vấn đề liên quan đến công tác này. 
 Phương pháp nghiên cứu: Đề tài đã được nghiên cứu bằng một số phương pháp cơ 
bản như: phương pháp phân tích đa dạng, phương pháp thống kê, tổng hợp, kết hợp với số 
liệu khảo sát và thống kê báo cáo thông qua thực tế của các giai đoạn để từ đó đưa ra các 
hình thức so sánh và các ý kiến về công tác phát triển nguồn nhân lực huyện. 
Nội dung của đề tài bao gồm 4 phần: 
Phần I: 
Lý luận chung về vấn đề phát triển nguồn nhân lực. 
Phần II: 
Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch. 
Phần III: 
Các giải pháp cho vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong huyệnLập Thạch. 
Phần IV: 
Kết luận. 
Phần I 
Lý luận chung về vấn đề phát triển nguồn nhân lực 
I. Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực 
1. Đặc điểm, vị trí của phát triển nguồn nhân lực 
 Việt Nam đang bước vào thời kỳ của sự phát triển, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp 
hoá hiện đại hoá đất nước, từng bước hội nhập với cộng đồng quốc tế chuẩn bị hành trang 
bước sang thế kỷ 21. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm phát triển và sử dụng có hiệu 
quả năng lực của nguồn nhân lực, tạo thêm công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng 
trưởng kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ, bảo đảm an ninh, 
chính trị, lãnh thổ ổn định và phát triển đất nước, cải thiện hơn nữa đời sống nhân dân, đòi 
hỏi dặt ra những yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng cao của nguồn nhân lực trong 
từng thời kỳ phát triển tương ứng. 
 Nguồn nhân lực có chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định tăng 
trưởng kinh tế. Kinh nghiệm này chỉ thấy rõ ở mô hình tăng trưởng kinh tế của một số 
nước như: Nhật, Singapo và các nước khác trong khu vực..., đồng thời cũng được chứng 
minh từ thực tế Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới. 
 Khi nghiên cứu lý thuyết mới về sự phát triển, một trong những vấn đề cơ bản nhất 
trong cấu trúc của nó là phát triển nguồn nhân lực, ở đó đặc biệt lưu ý đến nguồn nhân lực 
trẻ, coi phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu cuối cùng, là đỉnh cao nhất của quá trình phát 
triển mỗi quốc gia. 
 Thực chất phát triển nguồn nhân lực là phát triển yếu tố con người lại là trung tâm 
của sự phát triển. Xét đến cùng chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải đươch đặt trong 
chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung, hơn nữa phải được đặt ở vị trí trung tâm, là 
chiến lược của mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước. “Không còn là vấn đề 
chúng ta muốn hay chúng ta nên phát triển tài nguyên nhân sự... phát triển tài nguyên nhân 
sự là vấn đề sống còn của xã hội chúng ta”. Triết lý này của Jame L.Hages, cho chúng ta 
thấy được phần nào tính cấp thiết của công tác phát triển tài nguyên nhân sự. Nền kinh tế 
của chúng ta đang trải qua những thay đổi to lớn thông qua các tiến bộ về công nghệ đang 
làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực đối với các cấp, các ngành trở nên 
ngày càng quan trọng đối với người lao động, nhằm từng bước phát triển và nâng cao 
chuyên môn nghiệp vụ của người lao động một cách có hệ thống thông qua quá trình làm 
việc, trên cơ sở đó đánh giá khả năng của họ một cách toàn diện trong từng giai đoạn. Xuất 
phát từ lợi ích và yêu cầu đó, đòi hỏi mỗi người lao động phải có trình độ đáp ứng yêu cầu 
công việc. Và để có được một đội ngũ nguồn nhân lực giỏi có trình độ năng lực, phục vụ 
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của một tổ chức, một đơn vị thì hoạt 
động phát triển cần phải dựa trên một số nguyên tắc như: 
 Một là: Con người luôn có năng lực phát triển, mọi người đều có khả năng phát 
triển và sẽ thường xuyên phát triển để giữ vững sự ổn định và phát triển của tập thể cũng 
như cá nhân họ. 
 Hai là: Mỗi cá nhân đều có chân giá trị riêng, và nhân cách riêng khác nhau và đều 
có khả năng đóng góp sáng kiến. 
 Ba là: Lợi ích của con người và tập thể kết hợp với nahu. Hơn nữa phát triển nguồn 
nhân lực là một hoạt động đầu tư sinh lợi đáng kể, vì phát triển nguồn nhân lực là những 
phương tiện để đạt được sự phát triển của tổ chức. Còn về phía người lao động thì họ được 
sự ổn định và phát triển, có cơ hội tiến bộ, thăng chức, có những vị trí làm việc thuận lợi 
mà ở đó người lao động có thể đóng góp cống hiến được nhiều nhất, được cung cấp nhưng 
thông tin về đào tạo có liên quan đến họ. 
 Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong công tác phát triển nguồn nhân lực mà 
chúng ta cần quan tâm đến khi giải quyết vấn đề này. Để có thể nghiên cứu vấn đề này một 
cách triệt để có cơ sở và có hướng đi đúng đắn chúng ta đi vào làm rõ một số các khái 
niệm có liên quan. 
 Phát triển (Development): bao gồm các hoạt động nhằm chuẩn bị cho người lao 
động theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển. Các khoá học tại đại học 
cung cấp cho các nhà quản trị những kiến thức mới là một loại điển hình của sự phát triển. 
 Nguồn nhân lực (Human resouce): là nguồn lực về con người và được nghiên cứu 
dưới nhiều khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, 
bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết, dị tật 
bẩm sinh). 
 Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội được hiểu 
theo nghĩa hẹp hơn bao gồm nhóm dân cư trong đoọ tuổi lao động có khả năng lao động. 
Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động. 
 Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những người cụ thể tham gia 
vào quá trình lao động. Với tư cách hiểu này nguồn nhân lực bao gồm: những người từ 
giới hạn dưới tuổi lao động trở nên (ở nước ta là tròn 15 tuổi). 
 Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về quy mô nhân lực, song đều nhất trí với nhau đó 
là nguồn nhân lực nói nên khả năng lao động của xã hội. 
 Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn 
nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu như quy mô và tốc độ phát triển nguồn 
nhân lực. 
Về chất lượng: nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: sức khoẻ, trình độ văn hoá, 
trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất. Cũng như các nguồn nhân lực khác, số lượng 
và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra 
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. 
Sau khi đã nghiên cứu, xác định rõ từng thành tố, chức năng của vấn đề phát triển nguồn 
nhân lực chúng ta sẽ nghiên cứu sang để làm rõ đối tượng và nội dung của vấn đề này. 
2. Đối tượng, nội dung phát triển nguồn nhân lực 
 Phát triển nguồn nhân lực là một nhu cầu không thể thiếu được đối với bất kỳ giai 
đoạn nào trong một chiến lược phát triển kinh tế, nó thể hiện cho một sự phát triển tương 
lai. 
 Mỗi cơ sở, mỗi bộ phận trong một bộ máy tổ chức là một mắt xích của một dây 
truyền, đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển cho cả bộ máy. Một tổ chức chỉ có thể phát triển 
được một cách có hiệu quả khi mà tất cả các mắt xích trong bộ máy đều được hoạt động có 
hiệu quả. Để thúc đẩy sự phát triển này thì việc phát triển nguồnlực con người là có vị trí 
quan trọng nhất. Tuy nhiên, đối tượng của chương trình này không phải đâu xa lạ, ta có thể 
chia đối tượng theo các tiêu thức khác nhau, như tầng lớp người lao động và tầng lớp 
người quản lý. 
a, Người lao động 
 Đội ngũ này bao gồm những người lao động là những công nhân kỹ thuật và nhân 
viên nghiệp vụ họ trực tiếp thực hiện công việc trong quá trình sản xuất, cần có những kỹ 
năng trong công việc nhất định, cần phải được nâng cao kiến thức nghề nghiệp trong lao 
động để thực hiện một cách có hiệu quả hơn trong công việc, nâng cao năng suất lao động 
để thực hiện một cách có hiệu quả hơn trong công việc, nâng cao năng suất lao động, nâng 
cao chất lượng sản phẩm. 
Nội dung bồi dưỡng và phát triển nghề nghiệp cho người lao động cần phải luôn luôn chú 
trọng, xem xét và đánh giá thường xuyên, liên tục để có định hướng đáp ứng yêu cầu thay 
đổi của công nghệ mới, người được bồi dưỡng phải tập trung tiếp thu các kiến thức khoa 
học nhằm làm cơ sở tốt hơn cho việc rèn luyện những kỹ năng nghề nghiệp với mức độ 
của công nghệ mới đòi hỏi. Với hướng kỹ năng, họ giành được nhiều thời gian làm các 
công việc thực tế để đạt được sự lành nghề hơn nữa trng kỹ năng nghề theo như công nghệ 
mới đặt ra. Hàng năm nước ta cần khoảng 1,2-1,5 triệu chỗ làm việc mới. Trong đó có 
khoảng 1,5-1,7 người bước vào độ tuổi lao động, có khoảng 70% lao động chưa được đào 
tạo, khoảng 40% công nhân kỹ thuật được qua trường lớp. 
Đây là những con số cụ thể căn cứ vào số liệu thực tế này để nhà nước nói chung và các tổ 
chức, đơn vị nói riêng nhìn thấy được những bất cập trong công tác đào tạo và phát triển 
nguồn nhân lực, để có những nội dung bồi dưỡng và phát triển cho phù hợp. 
b, Đối với cấp quản trị và các chuyên viên. 
 Dù chúng ta có lý luận gì đi chăng nữa, tương lai của một tổ chức, một đơn vị hay 
nói rộng hơn là của một đất nước chủ yếu nằm trong tay cấp quản trị. 
 Kinh nghiệm ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy rằng vai trò của cấp quản trị là 
rất quan trọng, và là nhân tố quyết định sự thành bại, sự phát triển hay suy vong của một tổ 
chức. Chúng ta đã từng chứng kiến được những thực tế nhiều ngành địa phương vẫn những 
người lao động đó, vẫn những cơ chế đó của nhà nước qui định đó nhưng với một ban lãnh 
đạo có trình độ có khả năng nhạy bén, năng động sẽ tạo nên được những bước ngoặt đáng 
kể trong sự phát triển của một tập thể, làm cho tổ chức, đơn vị mình sẽ khởi sắc hơn và 
phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của người lao 
động trực tiếp. 
Đội ngũ quản trị bao gồm những người trực tiếp điều hành lãnh đạo, quản lý tổ chức hay 
đơn vị. Họ đảm nhận những chức năng đặt ra nhưng chính sách phương hướng phát triển 
cho toàn đơn vị mình đảm nhận một số chức năng khác như cố vấn kỹ thuật, cố vấn kinh 
tế, nghiên cứu thiết kế hoặc điều hành quá trình công nghệ. Đội ngũ này đòi hỏi phải có 
trình độ có khả năng nhạy bén và năng động. 
 Mục tiêu và nội dung bồi dưỡng cho đối tượng này phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể 
của từng lĩnh vực chuyên môn hay từng quá trình lao động vào nguyện vọng cá nhân hoặc 
đòi hỏi của đơn vị. 
 Nói chung nội dung chương trình bồi dưỡng phát triển thiết kế cụ thể cho từng 
khoá, từng chuyên đề thường được chia theo từng công đoạn dựa trên nguyên tắc nội dung 
hoá, đảm bảo khả năng phát triển của họ theo các hướng ngang và dọc. Nghĩa là mở rộng 
phạm vi và nâng cao trình độ chuyên môn tuỳ thuộc vào từng nhiệm vụ cụ thể của thực tế 
đơn vị đặt ra. 
3. Vai trò, mục đích của phát triển nguồn nhân lực 
 Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta bước sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế 
được chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản 
lý vĩ mô của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được nhìn nhận theo 
một quan điểm mới. Nó được coi là một loại hàng hoá đặc biệt, hơn thế nữa lao động còn 
được coi là một trong những yếu tố đầu vào của một quá trình sản xuất. Bởi vì trong cơ 
chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hoạch toán kinh doanh nên họ phải tìm cách tối 
thiểu hoá các chi phí, hiệu quả các yếu tố đó để mong đạt được lợi nhuận lớn nhất từ các 
khoản chi phí. Với cách nhìn nhận mới như vậy, một yêu cầu đặt ra với các nhà quản trị là 
phải bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ lao động như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi đó thì các 
nhà quản trị phải có kế hoạch cụ thể, xây dựng một qui trình đào tạo và phát triển rõ ràng, 
có sự phân công kiểm tra chặt chẽ. Và quan trọng hơn nhất là chất lượng lao động phải 
đảm bảo đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công việc. 
 Trước kia trong cơ chế cũ, người ta không mấy chú trọng đến chất lượng lao động, 
việc nhận người vào làm là do quan hệ thân thuộc, quen biết và dựa vào chỉ tiêu phân bổ 
của nhà nước dẫn đến hình thành đội ngũ cán bộ công nhân viên làm việc không hiệu quả, 
bị động. Mặt khác công tác bồi dưỡng và phát triển cán bộ công nhân viên không mấy khi 
được tiến hành. Nhưng ngày nay, trước sự đòi hỏi bức xúc của cơ chế thị trường cũng như 
mục tiêu kinh tế thì công tác bồi dưỡng và phát triển cán bộ công nhân viên là một việc 
lamf cấp bách không thể thiếu được đối với bất kỳ một đơn vị nào. 
Bên cạnh đó một xã hội tồn tại được hay không là do đáp ứng được sự thay đổi. Một đơn 
vị tiến hay lùi là do cấp quản trị có thấy được sự thay đổi để kịp thời bồi dưỡng và phát 
triển nguồn nhân lực của mình. Trong thời đại mà khoa học công nghệ tiến bộ nhanh như 
vũ bão, một doanh nghiệp muốn thành đạt, một đất nước muốn tăng trưởng phát triển 
nhanh... đều cần điều kiện kiên quyết: phải tạo được cho mình một nnm có trình độ tay 
nghề và trình độ chuyên môn tương xứng. Có vậy mới đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật 
công nghệ ngày càng hiện đại và phát triển. 
 Cùng với sự phát triển cơ chế thị trường thì việc mở rộng sự hợp tác về kinh tế ngày 
càng phát triển, hàng hoá được giao lưu một cách rộng rãi. Điều này rất thuận tiện cho việc 
xuất khẩu hàng hoá cũng như thu hút sự đầu tư của nước ngoài. Song để làm được điều 
này thì đòi hỏi phải có được nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cũng 
như trình độ quản lý giỏi. 
 Trong các yếu tố để phát triển nhanh và bền vững của doanh nghiệp của nền kinh tế 
thì nguồn nhân lực con người là yếu tố cơ bản nhất. Bởi lẽ khi đã có trình độ văn hoá, kỹ 
thuật nghiệp vụ cao có tay nghề vững sẽ là yếu tố quyết định để tạo ra phương pháp công 
nghiệp và công nghệ hiện đại. Nguồn nhân lực này vừa là người sáng tạo vừa là người sử 
dụng một cách đầy đủ, có hiệu quả, cần phải đầu tư để đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ 
cán bộ công nhân viên kỹ thuật chuẩn bị hế hoạch để phát triển đào tạo mới có chất lượng 
cao nhằm đáp ứng kịp thời sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như việc chuyển đổi cơ 
chế thị trường... 
 Trong công tác phát triển nguồn nhân lực thì đào tạo là bước đầu là tiền đề là 
phương tiện cho công tác phát triển. Vì vậy việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là 
cấn thiết cấp bách đối với mọi tổ chức đơn vị. Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề hết sức 
phức tạp bởi vì nó bao gồm rất nhiều các hoạt động khác nhau. Để hiểu được vai trò của 
phát triển ta phải đi vào tìm hiểu các hoạt động đó. Mục đích của chương trình đào tạo và 
phát triển chính bao gồm: 
 Thứ nhất là: Định hướng cho người được đào tạo. Mục đích của loại hình đào tạo 
này là cung cấp và chỉ dẫn về những kiến thức mới. Nó bao gồm phổ biến cho những 
người lao động mới về chương trình phúc lợi của một đơn vị và giải thích cho họ về cơ cấu 
tổ chức. 
 Thứ hai là: Phát triển kỹ năng có nhiều công việc đòi hỏi những kỹ năng mới. 
Những người lao động mới cần đạt được những kỹ năng mới khi công nghệ thay đổi, công 
việc phức tạp hơn. 
 Thứ ba là: đào tạo trong điều kiện an toàn loại hình đào tạo được thiết kế một cách 
an toàn nhất tránh tai nạn lao động xảy ra và tuân thủ theo nội quy đề ra. Người lao động 
sẽ không được phép thực hiện bất cứ một công việc gì cho đến khi họ biết cách thực hiện 
công việc một cách đảm bảo an toàn. 
 Thứ tư là: giáo dục về chuyên môn kỹ thuật. Mục đích của loại đào tạo này là tránh 
sự lỗi thời trong chuyên môn nghề nghiệp. Bởi vì cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, 
những người lao động có chuyên môn kỹ thuật cần phải được đào tạo theo từng thời kỳ. 
Việc đào tạo này bao gồm việc trang bị các kiến thức mới được đưa vào ứng dụng gần đây 
nhất. 
 Thứ năm là: giáo dục và đào tạo dưới sự giám sát: Việc đào tạo dưới sự giám sát và 
quản lý cần thiết cho việc ra quyết định quản lý và làm việc với mọi người. Bởi vì có rất 
nhiều loại hình đào tạo, các chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo cần phải xác định một cách 
cẩn thận nhu cầu đào tạo trong đơn vị. 
Với một vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tổ chức lao động, quản trị nguồn nhân 
lực, việc phát triển nguồn nhân lực giúp cho công việc cải tiến kỹ năng trình độ của người 
lao động, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình đào tạo và phát triển 
thành công sẽ đem lại những lợi ích như: 
- Cải tiến về năng suất chất lượng hiệu quả công việc. 
- Giảm thời gian thực tập cho người lao động để đạt được tiêu chuẩn công việc. 
- Tạo thái độ tán thành và hiệp tác trong lao động. 
- Đạt được yêu cầu trong công tác kế hoạch hoá nguồn nhân lực. 
- Giảm bớt tai nạn trong lao động vì nhiều tai nạn xảy ra là do những hạn chế của con 
người hơn là do những hạn chế của trang thiết bị hay điều kiện làm việc. 
- Sự ổn định và năng động của tổ chức tăng lên, chúng đảm bảo giữ vững hiệu quả hoạt 
động của doanh nghiệp ngay cả khi thiếu những người chủ chốt do có nguồn đào tạo dự trữ 
thay kế. 
II. Công tác phát triển nguồn nhân lực 
1. Tiến trình xây dựng một chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 
 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN đã đề ra một quyết 
định lịch sử “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từ đây đến năm 2000 ra sức phấn 
đấu đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp”. 
 Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tăng năng suất lao động đòi hỏi phát 
triển ở trình độ cao khoa học và công nghệ cùng các yếu tố khác có liên quan. Trong các 
yếu tố đó, vai trò của khoa học, kỹ thuật công nghệ đối với tăng năng suất lao động rất to 
lớn. Các thành tựu của khoa học kỹ thuật công nghệ đem ứng dụng vào sản xuất đã đưa lại 
sự sáng tạo và hoàn chỉnh các công cụ sản xuất, các đối tượng lao động và các phương 
pháp sản xuất mới. Tất cả những thay đổi có tính chất cách mạng đó đã làm tăng năng suất 
lao động lên gấp bội. Ngược lại, khi năng suất lao động tăng nhanh chóng lại tạo điều kiện 
cho khoa học, kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ. 
 Giờ đây, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng như luận điểm nổi 
tiếng của C.Mac: “Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, điện báo. Tất cả 
những thứ đó là thành quả của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra, là sức 
mạnh tri thức đã được vật hoá. Sự phát triển của vốn cố định là chỉ tiêu cho thấy rằng, tri 
thức xã hội chung đã biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp với mức độ phụ thuộc và biến 
đổi chính những điều kiện của hoạt động xã hội với trí tuệ chung...”. đến nay đất nước ta 
đã có một đội ngũ c