Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu vốn
đã trở nên vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị cũng
như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã trở thành một
phần không thể thiếu trong quá trình phát triển đó. Kể từ khi chuyển từ hệ thống ngân hàng
một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã
có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình, mạng lưới, quy mô hoạt động và
năng lực tài chính, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Ngoài hệ thống
ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,…
Các nghiệp vụ cũng đổi mới và từng bước hiện đại hóa, tiếp cận với công nghệ và thông lệ
quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng, ngân hàng đã đáp ứng được phần
lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp
nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia
bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi,
tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên trong bối cảnh môi trường kinh tế vĩ mô đang trong thời kỳ chưa ổn
định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các
NHTM đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là
nợ quá hạn, nợ khó đòi còn lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên
nhân phát sinh rủi ro tín dụng, để từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài và được
nhiều người quan tâm tới. Nói như vậy bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay hoạt động tín dụng
là hoạt động cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong toàn bộ các hoạt động của NHTM. Hoạt động
đó đã tạo ra phần lớn tài sản trong tổng tài sản của các NHTM và là hoạt động tạo ra
nguồn thu nhập chính của mỗi NHTM dưới hình thức thu nhập từ lãi cho vay. Tuy nhiên
hoạt động này luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn, dẫn đến mất khả năng
thanh toán hay phá sản ngân hàng. Chính vì vậy mà "chất lượng tín dụng" luôn là vấn đề
"sống, còn" trong hoạt động kinh doanh mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đặc biệt quan
tâm trong suốt quá trình tồn tại và phát triển.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam - Chi
nhánh Nam Hà Nội là chi nhánh được thành lập từ tháng 05 năm 2001. Là một chi
nhánh mới, lại hoạt động trên địa bàn Thủ đô - Trung tâm kinh tế chính trị của cả nước.
Đây vừa là một môi trường hấp dẫn, vừa là tiềm năng lớn trong kinh doanh nhưng đồng thời
cũng là một thách thức không nhỏ đối với chi nhánh. Hoạt động trên cùng một địa bàn với
nhiều NHTM l ớn, sự cạnh tranh trong kinh doanh là không tránh khỏi. Song, kể từ khi thành
l ập đến nay, Chi nhánh đã từng bước phấn đấu, ngày một hoàn thiện hơn và đạt được nhiều
thành tựu đáng kể, có tốc độ phát triển tương đối nhanh về mọi mặt, đã khẳng định được vị
trí trên thị trường. Tuy vậy trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội hiện nay hoạt động tín
dụng của chi nhánh cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới, tiềm ẩn rủi ro lớn
trong kinh doanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng, cùng với những kiến thức đã
học tập và nghiên cứu tại trường và quá trình làm việc thực tế, tôi quyết định chọn đề tài
"Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn -Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp" để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ của mình.
86 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2423 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi
nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp
MỞ ĐẦu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu vốn
đã trở nên vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị cũng
như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã trở thành một
phần không thể thiếu trong quá trình phát triển đó. Kể từ khi chuyển từ hệ thống ngân hàng
một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã
có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình, mạng lưới, quy mô hoạt động và
năng lực tài chính, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Ngoài hệ thống
ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,…
Các nghiệp vụ cũng đổi mới và từng bước hiện đại hóa, tiếp cận với công nghệ và thông lệ
quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng, ngân hàng đã đáp ứng được phần
lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp
nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia
bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi,
tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên trong bối cảnh môi trường kinh tế vĩ mô đang trong thời kỳ chưa ổn
định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các
NHTM đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là
nợ quá hạn, nợ khó đòi còn lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên
nhân phát sinh rủi ro tín dụng, để từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài và được
nhiều người quan tâm tới. Nói như vậy bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay hoạt động tín dụng
là hoạt động cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong toàn bộ các hoạt động của NHTM. Hoạt động
đó đã tạo ra phần lớn tài sản trong tổng tài sản của các NHTM và là hoạt động tạo ra
nguồn thu nhập chính của mỗi NHTM dưới hình thức thu nhập từ lãi cho vay. Tuy nhiên
hoạt động này luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn, dẫn đến mất khả năng
thanh toán hay phá sản ngân hàng. Chính vì vậy mà "chất lượng tín dụng" luôn là vấn đề
"sống, còn" trong hoạt động kinh doanh mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đặc biệt quan
tâm trong suốt quá trình tồn tại và phát triển.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam - Chi
nhánh Nam Hà Nội là chi nhánh được thành lập từ tháng 05 năm 2001. Là một chi
nhánh mới, lại hoạt động trên địa bàn Thủ đô - Trung tâm kinh tế chính trị của cả nước.
Đây vừa là một môi trường hấp dẫn, vừa là tiềm năng lớn trong kinh doanh nhưng đồng thời
cũng là một thách thức không nhỏ đối với chi nhánh. Hoạt động trên cùng một địa bàn với
nhiều NHTM lớn, sự cạnh tranh trong kinh doanh là không tránh khỏi. Song, kể từ khi thành
lập đến nay, Chi nhánh đã từng bước phấn đấu, ngày một hoàn thiện hơn và đạt được nhiều
thành tựu đáng kể, có tốc độ phát triển tương đối nhanh về mọi mặt, đã khẳng định được vị
trí trên thị trường. Tuy vậy trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội hiện nay hoạt động tín
dụng của chi nhánh cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới, tiềm ẩn rủi ro lớn
trong kinh doanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng, cùng với những kiến thức đã
học tập và nghiên cứu tại trường và quá trình làm việc thực tế, tôi quyết định chọn đề tài
"Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn -
Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp" để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và làm rõ hơn cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng của
các NHTM trong nền kinh tế thị trường.
- Khảo sát một cách toàn diện và có hệ thống về thực trạng chất lượng tín dụng của
Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong thời gian qua và kinh nghiệm của một số
NHTM các nước trong việc nâng cao chẩt lượng tín dụng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh
NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Các lý luận cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh
tế thị trường.
+ Thực trạng chất lượng tín dụng cho vay của NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà
Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: các hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Nam Hà Nội
trong khoảng thời gian từ 2008 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các
phương pháp thống kê, thu thập tài liệu trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tín dụng và chất lượng tín dụng ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, do tính chất vận động của các nguồn vốn hàng
hóa, tiền tệ và sự độc lập tương đối của tiền tệ, nên tất yếu nảy sinh mâu thuẫn tạm thời
thừa và tạm thời thiếu vốn tiền tệ. Để giải quyết căn bản mâu thuẫn đó tín dụng đã xuất
hiện như là một hiện tượng tất yếu khách quan. Biểu hiện bên ngoài của quan hệ tín dụng
trước hết đó là sự chuyển giao quyền sử dụng vốn theo thời hạn giữa chủ thể sở hữu chúng
nhưng chưa có nhu cầu sử dụng với chủ thể đang có nhu cầu sử dụng nhưng chưa có đủ khả
năng tạo lập. Hay nói một cách cụ thể hơn tín dụng được biểu hiện trước hết là sự vay, mượn
tạm thời một số vốn tài sản hàng hóa hay tiền tệ mà qua đó người đi vay có thể có được quyền
sử dụng một lượng giá trị nhất định theo cam kết giữa các bên. Như vậy quan hệ tín dụng là
một quan hệ xã hội biểu hiện thông qua các liên hệ về kinh tế, trong đó yếu tố lòng tin được
xem như đặc trưng cơ bản nhất.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn chỉnh của thị trường, từ thấp tới
cao quan hệ tín dụng cũng ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng và phong
phú. Trong nền kinh tế thị trường đã và đang tồn tại nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng
nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng và các hình thức tín
dụng kết hợp khác... Tuy nhiên tín dụng ngân hàng với các đặc trưng riêng vẫn được coi là
hình thức tín dụng cơ bản và giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống tín dụng.
Vậy có thể hiểu: Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát
sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc
hoàn trả theo thời hạn.
1.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động tín dụng luôn được coi là hoạt động cơ bản và bao trùm nhất trong toàn
bộ các hoạt động kinh doanh của các NHTM bởi nó là hoạt động tạo ra phần lớn các tài
sản của ngân hàng (dưới hình thức các khoản cho vay) và cũng là hoạt động đem lại thu
nhập chủ yếu của các NHTM. Tuy nhiên, kinh doanh tín dụng của NHTM trong nền kinh
tế thị trường phải đối mặt với nhiều áp lực như: sự cạnh tranh của thị trường, các yếu tố
kinh tế vĩ mô, mức độ hấp thụ vốn, chất lượng của nền kinh tế cùng với nhiều quan hệ xã
hội khác,… nên hoạt động tín dụng thường xuyên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bởi mục tiêu cao
nhất của mọi chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đều là phải tối đa hóa lợi
nhuận, mà một trong các yêu cầu cơ bản nhất để thực hiện mục tiêu đó là phải thỏa mãn
nhu cầu vốn kinh doanh. Do đó vì mục tiêu lợi nhuận, các NHTM thường phải tối đa hóa
khả năng huy động vốn và cho vay, cũng vì lợi nhuận các khách hàng của NHTM cũng
cần thiết tối đa hóa khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên cả
NHTM và các khách hàng của NHTM đều bị chi phối bởi các yếu tố từ bên trong và các
yếu tố từ bên ngoài nền kinh tế, nên nhiều khi trong hoạt động nảy sinh mâu thuẫn trong sử
dụng vốn là điều tất yếu sẽ xảy ra. Với chức năng cơ bản là "trung gian tín dụng" của nền
kinh tế, các NHTM đã thực hiện giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó bằng cách là thực hiện tập
trung các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, và sử dụng chính các nguồn tiền tệ đó hình
thành nên quỹ cho vay để thỏa mãn các nhu cầu vốn tạm thời thiếu cho xã hội.
Như vậy, phương châm hoạt động cơ bản của NHTM trong nền kinh tế thị trường
là "đi vay để cho vay".
1.1.3. Đặc điểm chủ yếu của tín dụng ngân hàng
- Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tức
là: các ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Khi huy động, các ngân hàng sử dụng các hình thức huy động khác nhau để thu hút
mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để tạo lập nguồn vốn kinh doanh, lúc này ngân hàng
đóng vai trò là người đi vay lớn nhất trong nền kinh tế.
Khi cho vay, các ngân hàng lại dùng chính nguồn vốn đã huy động được để cho
vay lại đối với nền kinh tế, lúc này ngân hàng lại đóng vai trò là người cho vay lớn nhất
trong nền kinh tế.
- Huy động vốn và cho vay của NHTM đều chủ yếu thực hiện dưới hình thức tiền tệ:
trong quan hệ tín dụng ngân hàng, các ngân hàng bằng cơ chế thích hợp, huy động các nguồn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ cho vay của ngân hàng. Như vậy, tiền ở
đây là công cụ thực hiện tín dụng, đó là loại tiền tín dụng hay còn gọi là công cụ lưu thông
tín dụng ngân hàng.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự
vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.
Vốn tín dụng là bộ phận không thể thiếu trong quá trình vận động của mọi hoạt
động xã hội nói chung và các hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên, do tính
độc lập tương đối của tiền tệ trong mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cho nên người ta thường
quan niệm vốn tín dụng ngân hàng có tính độc lập tương đối với quá trình tái sản xuất xã
hội. Bởi vì trong quá trình vận động, vốn tín dụng ngân hàng có thể tham gia vào bất cứ
một giai đoạn nào của chu kỳ vận động, song dường như đều dễ nhìn thấy đó là ở giai
đoạn đầu (dưới hình thức các nhu cầu chi phí bằng tiền) và giai đoạn kết thúc (dưới hình
thức các khoản thu nhập bằng tiền của quá trình tái sản xuất). Do đó khi nền kinh tế ở
trạng thái cân bằng (cân đối hàng hóa - tiền tệ) nguồn vốn tín dụng vận động theo sự vận
động của các nguồn vốn của quá trình tái sản xuất (T - H hoặc H - T). Nhưng khi nền kinh
tế phát triển đến một mức nhất định tất yếu nảy sinh mâu thuẫn trong quá trình chu chuyển
vốn là nhu cầu vốn bằng tiền không tương thích với nhu cầu hàng hóa trong trao đổi. Khi
đó với chức năng "trung gian tín dụng" và với các công cụ huy động vốn, cho vay, thanh
toán để góp phần đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng theo các mục tiêu cơ bản của nền
kinh tế trong từng giai đoạn. Do đó, có thể khẳng định sự vận động và phát triển của tín
dụng ngân hàng chịu sự tác động và phụ thuộc vào quá trình vận động của quá trình tái sản
xuất xã hội, nhưng có tính độc lập tương đối với quá trình đó. Cho nên trong thực tế tín
dụng ngân hàng thường được coi là một công cụ hữu hiệu để thúc đẩy tăng trưởng, hoặc
điều chỉnh, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
- Phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng là toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh
tế thị trường hầu như mọi quan hệ trao đổi đều có thể "tiền tệ hóa ", do vậy với công cụ
thực hiện chủ yếu là "quyền sử dụng tiền tệ" nên tín dụng ngân hàng có thể tham gia vào
mọi quan hệ xã hội. Điều đó được biểu hiện ra bên ngoài là các NHTM có thể thực hiện
huy động vốn tiền tệ, cho vay vốn và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho hầu hết mọi chủ
thể trong xã hội. Có nghĩa là tín dụng ngân hàng có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng tiền cho
mọi đối tượng, mọi phạm vi, mọi khoảng thời gian của toàn xã hội. Tuy nhiên sự thỏa mãn
đó phải nằm trong sự điều chỉnh chung của nhà nước và sự ràng buộc của pháp luật trong
từng giai đoạn, tình hình cụ thể của nền kinh tế.
1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế hiện đại, các NHTM phân loại tín dụng theo các tiêu thức cơ
bản sau:
1.1.4.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay
Căn cứ vào tiêu thức này người ta chia tín dụng ra thành hai loại:
- Tín dụng đối với sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp tín dụng cho các
đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền như máy giặt, điều hòa, tủ
lạnh,…
1.1.4.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay
Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung sự
thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp. Nó có thể được vay cho những sinh
hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1 - 5 năm. Loại tín dụng
này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật công nghệ,
mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại tín dụng
này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các công trình mới,
các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần bổ
sung cho vốn lưu động thường xuyên
1.1.4.3. Theo hình thức đảm bảo tiền vay
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:
- Đảm bảo bằng tài sản: là loại tín dụng được ngân hàng cung cấp với điều kiện
phải có tài sản đảm bảo như thế chấp, cầm cố, hoặc cần có bảo lãnh của người thứ ba. Đối
với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay vốn đòi hỏi phải có tài sản
đảm bảo, sự đảm bảo này là căn cứ kinh tế để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai,
bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù đắp lại khoản tiền vay trong
trường hợp người vay không có khả năng trả nợ.
- Đảm bảo không bằng tài sản: là loại tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố,
hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính
lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không cần đòi hỏi
nguồn thu nợ bổ sung. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc truy đòi các khoản nợ
có vấn đề phát sinh.
1.1.4.4. Theo thành phần kinh tế
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế nhà nước.
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước.
Ngoài ra tín dụng có thể phân theo: loại tiền, phạm vi quốc gia, cơ cấu vốn tín
dụng tham gia, đối tượng tạo lập của vốn vay.
1.1.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế nên tín dụng có tác động nhất định đối với hoạt
động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng
quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người.
Tín dụng ngân hàng ra đời xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong nền kinh tế
luôn làm phát sinh hiện tượng có những chủ thể tạm thời thừa vốn và những chủ thể khác
tạm thời thiếu vốn. Tín dụng ngân hàng đã giải quyết được mâu thuẫn giữa cung cầu về
vốn, là sự cần thiết khách quan phù hợp với sự vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị
trường. Khối lượng tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, ngày càng
giữ vị trí quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng như lưu thông
tiền tệ.
Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường được cụ thể hóa bằng các vai trò
sau đây.
1.1.5.1. Đối với bản thân ngân hàng
- Tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng. Thu
nhập từ hoạt động tín dụng được hình thành chủ yếu bởi chênh lệch giữa lãi cho vay với lãi
suất huy động và một số các khoản phí khác theo quy định, khoản thu nhập này là phần thu
nhập đáng kể trong tổng thu nhập của các NHTM. Đặc biệt ở các nước chưa có thị trường
vốn phát triển thì hoạt động cho vay truyền thống vẫn được coi như hoạt động bao trùm
nhất trong kinh doanh của NHTM. Do đó thu nhập từ cho vay có thể được xem như khoản
thu nhập chính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, Tuy nhiên hoạt động
tín dụng lại là hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn nhất trong kinh doanh ngân hàng nên các
NHTM thường rất coi trọng và nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng.
- Hoạt động tín dụng góp phần đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
giúp ngân hàng mở rộng đối tượng và phạm vi đầu tư từ đó giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Trước hết chúng ta thấy quan hệ tín dụng là quan hệ lớn nhất và quan trọng nhất
trong các quan hệ với khách hàng của ngân hàng. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng
các ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cung ứng cho chính bản thân
họ. Thông qua hoạt động huy động vốn (nhất là hoạt động tiền gửi) ngân hàng có thể tạo ra
nhiều sản phẩm dịch vụ tiền tệ như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thu hộ,
chi hộ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ két sắt,… và các dịch vụ tiền tệ khác có liên quan. Thông
qua hoạt động cho vay ngân hàng có thể tạo ra các dịch vụ liên quan như: dịch vụ tư vấn,
dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ,… Nhất là trong
điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển thì hầu hết các NHTM đều xây dựng chiến lược
phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại để lần lượt thay thế cho các sản phẩm kinh doanh
truyền thống, và coi đây là chiến lược kinh doanh chủ yếu nhất trên thị trường.
1.1.5.2. Đối với khách hàng
- Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để quá trình sản xuất được liên tục:
Trong nền kinh tế, có nhiều chủ thể kinh tế hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau,
mỗi chủ thể, mỗi ngành kinh tế lại có chu kỳ sản xuất khác nhau, trong khi đó, quá trình tái
sản xuất xã hội lại diễn ra liên tục trên cơ sở phân công lao động và hợp tác trong toàn bộ
nền kinh tế. Vì vậy, tất yếu xảy ra tình trạng nơi tạm thời thừa vốn, nơi tạm thời thiếu vốn.
Với tư cách là trung gian tài chính, các ngân hàng tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong nền kinh tế, và cho vay đối với các thành phần đang tạm thời thiếu vốn, tạo điều
kiện cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Điều này có nghĩa là tín dụng ngân hàng
là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ chu
chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động theo phương châm "đi vay để cho
vay", tín dụng ngân hàng không những đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra bình
thường, mà còn đẩy nhanh quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, mở rộng sản xuất, cải
tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ sản xuất mới, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
- Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy phát triển các hoạt động sản xuất kinh
doanh thêm năng động và có hiệu quả hơn: Hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt
đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng vận động để phù hợp với những biến động của
thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của mình
doanh nghiệp phải đi v