Hồ Chí Minh (1890-1969) – danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta đến những thắng lợi vĩ đại. Một trong những đóng góp quan trọng của Người trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là việc thống nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Để thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài về mọi mặt. Nhằm góp phần làm rõ và đem lại hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề này, chúng em xin lựa chọn đề tài “Nêu tiền đề ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam”.
6 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nêu tiền đề ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh (1890-1969) – danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta đến những thắng lợi vĩ đại. Một trong những đóng góp quan trọng của Người trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là việc thống nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Để thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài về mọi mặt. Nhằm góp phần làm rõ và đem lại hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề này, chúng em xin lựa chọn đề tài “Nêu tiền đề ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam”.
NỘI DUNG
1, Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học thuyết của C.Mác và trực tiếp từ học thuyết xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lê-nin. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam đã đưa Hồ Chí Minh đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
C.Mác và Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động làm cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.Do vậy, xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước tư bản phương Tây và nước Nga, V.I.Lênin đã nêu ra luận điểm: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây. Chủ nghĩa Mác là học thuyết xã hội khoa học, mang lý tưởng về một xã hội nhân đạo thực sự. Còn giai cấp công nhân phương Tây là giai cấp tiên tiến, đông đảo về lực lượng, lại được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.
Hồ Chí Minh quan tâm tìm kiếm những cơ sở thực tế dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản ở những nước lạc hậu, phụ thuộc với những tàn tích phong kiến còn rất nặng nề. Theo đó, Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên phong, vững mạnh, có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; có khả năng vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng và gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới. Đồng thời, Đảng phải có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải quyết triệt để hai mâu thuẫn cơ bản là đánh đuổi thực dân đế quốc và lật đổ phong kiến, tư sản đem lại ruộng đất cho dân cày.
Nói cách khác, Đảng Cộng sản ở những nước lạc hậu, phụ thuộc cần phải được vũ trang bằng lí luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải được xây dựng trên những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, bởi vì, chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Học thuyết ấy đã chỉ ra con đường của sự tự giải phóng con người và sự phát triển xã hội.
Hơn nữa, ở đây Đảng Cộng sản còn phải công khai lập trường, quan điểm của mình là đứng về phía nào? Bênh vực, bảo vệ ai, cái gì và chống lại ai, cái gì? Và phải có phương pháp biện chứng duy vật trong đấu tranh cách mạng và vận động quần chúng, nghĩa là phương pháp phải mềm dẻo, linh hoạt, nhạy bén, nắm thời cơ và đưa quần chúng ra đấu tranh, tạo thành phong trào quần chúng rộng lớn.
2, Phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tế ở Việt Nam, một nước phong kiến nửa thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu và nông dân chiếm đa số trong xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam mới hình thành, còn mỏng về số lượng, chưa có kinh nghiệm đấu tranh thực tiễn, chưa mạnh về tiềm lực, trình độ còn thấp, do vậy phong trào công nhân còn non yếu, chưa thể tạo thành sức mạnh to lớn, chưa thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình. Nhưng là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, là giai cấp cách mạng, ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới như có tinh thần kỉ luật cao, có tổ chức, có kỷ luật, nhạy bén với cái mới thì giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc trưng riêng như chịu ba tầng áp bức bóc lột, gắn bó máu thịt với nông dân, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc, sớm chịu các trào lưu cách mạng vô sản trên thế giới nên đã nhanh chóng vươn lên trở thành một động lực mạnh mẽ của phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến của thời đại. Do vậy giai cấp công nhân vừa là lực lượng chủ yếu vừa giữ vai trò lãnh đạo cách mạng.
Trong khi đó, ở Việt Nam những phong trào yêu nước rộng lớn đã và đang lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân, vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Nếu kết hợp được phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân với phong trào công nhân thì sẽ tạo ra sức mạnh to lớn. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo lí luận, bổ sung và phát triển học thuyết của C.Mác và V.I.Lênin về xây dựng Đảng: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.”
Ở Việt Nam, nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cách mạng cũng không đủ lực lượng để mở rộng được cuộc đấu tranh và đưa nó đến thắng lợi. Thành công của Hồ Chí Minh chính là ở chỗ đã kết hợp nhuần nhuyễn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng đảng kiểu mới với việc phân tích sâu sắc tình hình thực tế của cách mạng ở Việt Nam để hoàn thiện lí luận về xây dựng Đảng của mình.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đi đến giác ngộ giai cấp, kết hợp giác ngộ dân tộc với giác ngộ giai cấp trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin là con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn và đã đi. Từ đó dẫn tới hệ luận điểm: “Không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, nhưng việc tiếp cận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần thiết để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, phải thường xuyên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm đường lối của Đảng trong nhân dân và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Việc gắn phong trào công nhân với phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc của Hồ Chí Minh đã có lúc bị hiểu lầm, bị đánh giá là nặng về dân tộc, nhẹ về giai cấp, là người dân tộc chủ nghĩa. Song, thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh quan điểm về việc gắn chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Sự gắn bó ấy không chỉ đúng với cách mạng Việt Nam, với cách mạng của các nước thuộc địa, mà còn đúng với tất cả những nước đang đi vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3, Những hoạt động thực tiễn chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết tiến tới thành lập Đảng.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không những đã nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của một chính đảng cách mạng, mà còn chuyển nhận thức đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”
Với nhận thức đó, từ rất sớm, trong những hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn quan tâm chú ý đến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
Sau khi được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, chế độ Xô-viết mới ra đời và tích cực tham gia nhiều hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Hội liên hiệp thuộc địa được thành lập năm 1921 và Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông được thành lập năm 1925 là những tổ chức quốc tế đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc, mà Nguyễn Ái Quốc vừa là người khởi xướng, vừa là người tổ chức, lãnh đạo với vai trò chủ yếu nhất.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc chuẩn bị về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng sau này. Thông qua tổ chức tiền thân Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, có Cộng sản đoàn làm nòng cốt, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng mới, bằng cách mở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu từ năm 1925 đến năm 1927. Sau các khóa học, phần lớn họ trở về nước để truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, còn một số ít được chọn vào Trường Quân sự Hoàng Phố và Trường đại học Phương Đông học tập để sau đó trở về Việt Nam hoạt động trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân khác, làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Đây chính là sự gặp gỡ tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại.
Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930 là sản phẩm tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước dâng cao, là sản phẩm tất yếu của sự chuyển biến về ý thức hệ. Những người cách mạng Việt Nam trong nước đã nhận thấy tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, cần phải có Đảng Cộng sản thay thế. Nhưng trong một nước không thể tồn tại đồng thời ba tổ chức cộng sản có cùng mục tiêu, lý tưởng. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu và chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Việc hợp nhất đó đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam chính là ở chỗ dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó có sự khái quát về tư tưởng, lý luận. Người từng bước tổ chức hoạt động thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của những tư tưởng, lý luận đã tổng kết, khái quát được của mình, nắm bắt thời cơ cách mạng, tích cực hoạt động chuẩn bị mọi mặt lâu dài cho sự ra đời của Đảng ta, vận động, thống nhất đứng ra thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân ta, là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử trên con đường đấu tranh trong mấy thập kỉ của đầu thế kỉ XX. Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của Cách mạng Việt Nam.
KẾT LUẬN
Như vậy Đảng ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong thời đại mới, là sự cố gắng, tích cực chuẩn bị về mọi mặt lâu dài của Hồ Chí Minh. Do được kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa Mác-Lênin, và sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh, nên sự ra đời của Đảng ta vừa chịu sự tác động của quy luật ra đời Đảng Cộng Sản, vừa có những nét riêng, đặc thù do hoàn cảnh lịch sử quy định. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đi từ hết thắng lợi này cho đến thắng lợi khác, và ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất định sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Qua đó chúng ta càng thấy rõ hơn công lao to lớn vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người và chủ nghĩa Mác – Lênin mãi là kim chỉ nam cho mọi bước đi của Đảng.