Từ khi lịch sử phát triển của xã hội loài người có sự phân chia gia cấp, vấn đề phân 
biệt giàu nghèo  đã xuất  hiện và cho  đến nay vẫn  đang tồn tại như một thách thức lớn  đối 
với sự phát triển bền vững của từng Quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện 
đại của nhân loại. Mục tiêu xoá  đói giảm nghèo (XĐGN) luôn được đặt ra trong quá trình 
phát triển kinh  tế-xã hội không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, 
những năm gần  đây nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế rất quan tâm tìm các giải pháp hạn 
chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới.
Ở nước ta, xóa đói giảm nghèo được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát 
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác 
định mục tiêu cơ bản trong hoạt  động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế  độ 
mới để đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân, mọi gia đình Việt Nam. Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã chỉ rõ,  Đảng và Nhà nước phải tạo  điều kiện "Làm cho người nghèo  đủ  ăn. 
Người đủ ăn thì khá. Người khá, giàu thì giàu thêm" [13, tr 303]. 
Vấn  đề xóa  đói giảm nghèo  đã  được đưa vào mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (1996-2000). Đại hội  Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã khẳng 
định:"Thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ quân sự cách mạng, 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số".  Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng  định hướng  đi đó 
và nhấn mạnh:  "Việc tăng trưởng kinh tế phải  đi đôi với xóa  đói giảm nghèo ngay trong 
từng bước  đi và trong suốt quá trình Công nghiệp hóa-Hiện  đại hóa  đất nước. Phấn  đấu 
đến năm 2010, về cơ bản không còn  hộ nghèo"  [14]. Công cuộc  đổi mới của  đất nước  đã 
đạt được những thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế-xã hội, đời sống của đa số dân cư 
được cải thiện, công tác XĐGN đã thu được thành tựu đáng kể. Song, mức sống của người 
dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên. Một bộ phận khá lớn dân cư 
còn sống nghèo đói, trong đó có nhiều gia đình có công với Cách mạng vẫn còn chịu nhiều 
thiệt thòi trong hòa nhập cộng  đồng và không  đủ sức tiếp nhận những thành quả do công 
cuộc  đổi mới mang lại. Cuối năm 2005, cả nước vẫn còn khoảng 22% số hộ nghèo  đói. 
Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN đã triển khai mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh, thành 
trong cả nước, nhưng hiệu quả chưa cao. Nhiều hộ thoát nghèo vẫn chưa vững chắc, rất dễ 
tái nghèo khi gặp thiên tai hay rủi ro bất thường trong đời sống và sản xuất kinh doanh,.
Quảng Trị là một trong những tỉnh nghèo nhất khu vực Miền Trung, trong những 
năm qua, Quảng Trị đã tích cực thực hiện Chương trình XĐGN và thu được một số kết quả 
đáng kể; từ 1996-2005 tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm trên 2 %. Tuy nhiên tỷ lệ 
hộ nghèo của tỉnh còn rất cao 28,48% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-TB&XH). Đây đang là vấn  đề bức xúc  đặt ra cho tỉnh Quảng Trị, bởi thực hiện XĐGN 
trên địa bàn tỉnh không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của Quốc gia mà còn có 
vai trò thúc  đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển, vươn lên tránh tụt hậu;  đồng thời hội 
nhập với các vùng khác trong khu vực và cả nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, lý giải một 
cách đầy  đủ và có hệ thống  vấn  đề nghèo  đói, xác định các giải pháp thực hiện vừa  đảm 
bảo đúng nguyên lý chung vừa phù hợp với thực tiễn của địa phương Quảng Trị là yêu cầu 
cấp thiết.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 117 trang
117 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2110 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ 
và có hệ thống vấn đề nghèo đói 
MỞ ĐẦU 
 1. Tính cấp thiết của đề tài 
Từ khi lịch sử phát triển của xã hội loài người có sự phân chia gia cấp, vấn đề phân 
biệt giàu nghèo đã xuất hiện và cho đến nay vẫn đang tồn tại như một thách thức lớn đối 
với sự phát triển bền vững của từng Quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện 
đại của nhân loại. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN) luôn được đặt ra trong quá trình 
phát triển kinh tế-xã hội không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, 
những năm gần đây nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế rất quan tâm tìm các giải pháp hạn 
chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới. 
Ở nước ta, xóa đói giảm nghèo được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát 
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác 
định mục tiêu cơ bản trong hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ 
mới để đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân, mọi gia đình Việt Nam. Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện "Làm cho người nghèo đủ ăn. 
Người đủ ăn thì khá. Người khá, giàu thì giàu thêm" [13, tr 303]. 
Vấn đề xóa đói giảm nghèo đã được đưa vào mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội 5 năm (1996-2000). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã khẳng 
định:"Thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ quân sự cách mạng, 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số". Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định hướng đi đó 
và nhấn mạnh: "Việc tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo ngay trong 
từng bước đi và trong suốt quá trình Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. Phấn đấu 
đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo" [14]. Công cuộc đổi mới của đất nước đã 
đạt được những thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế-xã hội, đời sống của đa số dân cư 
được cải thiện, công tác XĐGN đã thu được thành tựu đáng kể. Song, mức sống của người 
dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên. Một bộ phận khá lớn dân cư 
còn sống nghèo đói, trong đó có nhiều gia đình có công với Cách mạng vẫn còn chịu nhiều 
thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do công 
cuộc đổi mới mang lại. Cuối năm 2005, cả nước vẫn còn khoảng 22% số hộ nghèo đói. 
Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN đã triển khai mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh, thành 
trong cả nước, nhưng hiệu quả chưa cao. Nhiều hộ thoát nghèo vẫn chưa vững chắc, rất dễ 
tái nghèo khi gặp thiên tai hay rủi ro bất thường trong đời sống và sản xuất kinh doanh,. 
Quảng Trị là một trong những tỉnh nghèo nhất khu vực Miền Trung, trong những 
năm qua, Quảng Trị đã tích cực thực hiện Chương trình XĐGN và thu được một số kết quả 
đáng kể; từ 1996-2005 tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm trên 2 %. Tuy nhiên tỷ lệ 
hộ nghèo của tỉnh còn rất cao 28,48% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-
TB&XH). Đây đang là vấn đề bức xúc đặt ra cho tỉnh Quảng Trị, bởi thực hiện XĐGN 
trên địa bàn tỉnh không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của Quốc gia mà còn có 
vai trò thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển, vươn lên tránh tụt hậu; đồng thời hội 
nhập với các vùng khác trong khu vực và cả nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, lý giải một 
cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói, xác định các giải pháp thực hiện vừa đảm 
bảo đúng nguyên lý chung vừa phù hợp với thực tiễn của địa phương Quảng Trị là yêu cầu 
cấp thiết. 
 2. Tình hình nghiên cứu 
Xung quanh vấn đề nghèo đói, phân hóa giàu nghèo, XĐGN là chủ đề được Đảng, 
Nhà nước Việt nam, nhiều cơ quan trong nước, tổ chức quốc tế, cán bộ nghiên cứu quan 
tâm và có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau. Nhưng đáng chú ý là 
một số công trình sau: 
- UNDP “Tiến kịp”, 1996. 
- Nguyễn Thị Hằng, “Vấn đề XĐGN ở nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 1997. 
- Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hòa, “Phân hóa giàu - nghèo ở một số Quốc gia khu vực 
Châu Á-Thái Bình Dương”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999. 
- Ngô Quang Minh, “Tác động kinh tế của nhà nước góp phần XĐGN trong quá trình 
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. 
- Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo "XĐGN vùng 
dân tộc thiểu số: Phương pháp tiếp cận", năm 2001. 
- Trần Thị Hằng, "Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện 
nay", Nxb Thống kê, năm 2001. 
- Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, “Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam”, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 2001. 
- Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô. Chương trình 
nghiên cứu Việt Nam, Hà Lan (VNRP), Đà Nẵng năm 2002. 
- Ngân hàng Thế giới “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam” năm 2004... 
 Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề 
XĐGN. Đây là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình 
viết Luận văn này. 
 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
Mục đích: Nghiên cứu, khảo sát để đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân nghèo 
đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu XĐGN trên địa bàn Quảng Trị, làm cơ sở cho việc 
xây dựng, chỉ đạo điều hành kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh có hiệu quả. 
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ: 
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghèo đói và XĐGN. 
+ Phân tích thực trạng nghèo đói và hoạt động XĐGN ở tỉnh hiện nay, chỉ rõ 
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói và những vấn đề đặt ra cho công tác XĐGN trên 
địa bàn tỉnh Quảng Trị. 
+ Xác định mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu thực hiện XĐGN ở Quảng Trị 
trong thời gian tới. 
 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các đối tượng là người nghèo, xã nghèo, 
vùng nghèo trong tỉnh. 
Phạm vi nghiên cứu: Quảng Trị có đặc điểm tương đối phức tạp về điều kiện sống, 
khí hậu, và địa hình,... có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến nghèo đói cho từng vùng, 
từng hộ. Ở Quảng Trị, dân số nông thôn chiếm tỷ lệ cao, vì thế luận văn đi sâu nghiên cứu 
vấn đề nghèo đói và XĐGN ở vùng nông thôn. Mặt khác, để phục vụ cho yêu cầu chỉ đạo 
chương trình XĐGN phù hợp với đặc điểm của địa phương, luận văn phân tích 3 vùng 
kinh tế sinh thái của tỉnh là: Vùng ven biển, vùng đồng bằng trung du và vùng núi. Về thời 
gian luận văn phân tích chủ yếu từ năm 1996 đến nay, khi các hoạt động XĐGN trên địa 
bàn tỉnh được đưa vào Nghị quyết. Về mục tiêu chiến lược và giải pháp XĐGN, dự báo 
đến năm 2015; một số mục tiêu được định lượng cụ thể đến năm 2010 để phù hợp với định 
hướng phát triển KT-XH của tỉnh. 
 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Để xem xét vấn đề nghèo đói và XĐGN một cách khách quan, khoa học và sát thực 
tiễn, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa 
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối và chính sách của Đảng và 
Nhà nước ta về nghèo đói và XĐGN, vấn đề dân tộc. Luận văn sử dụng phương pháp duy 
vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học và 
xã hội học như: Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, phương pháp đồ thị, 
mô hình, phân tổ, điều tra, tổng kết thực tiễn... để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề 
nghiên cứu của đề tài. 
 6. Những điểm mới của luận văn 
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ tiếp tục kế thừa kết quả của nhiều công 
trình khoa học liên quan đến vấn đề nghèo đói và XĐGN; luận văn có những điểm mới sau 
đây: 
- Chỉ ra diễn biến nghèo đói và hoạt động XĐGN ở tỉnh Quảng Trị và những vấn đề 
đặt ra cần phải giải quyết. 
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm từng bước XĐGN ở Quảng Trị 
trong thời gian tới. 
 7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 
chương, 8 tiết. 
Chương 1 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI 
 1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CHUẨN NGHÈO
 1.1.1. Quan niệm về nghèo đói 
Vấn đề nghèo đói đã được đề cập trong chính sách của nhiều quốc gia và trong một 
số thập kỷ qua ở nhiều nước đã có bước tăng trưởng đáng kể về kinh tế và đời sống. Do 
vậy, chống nghèo đói là một trong những chính sách ưu tiên của Liên Hợp Quốc nhằm cải 
thiện đời sống cho khoảng trên 1,2 tỷ người đang sống trong tình trạng nghèo đói tuyệt 
đối. 
Do vấn đề nghèo đói diễn ra trên quy mô lớn nên hậu quả của nó đã tác động xấu 
đến vấn đề sinh thái, môi trường và sự bất ổn về chính trị ở nhiều vùng trên thế giới. Nó có 
ảnh hưởng không chỉ đối với các quốc gia nghèo mà còn có nguy cơ lan rộng và tác động 
toàn cầu như tàn phá môi trường sinh thái, vấn đề di dân quốc tế ồ ạt, tiêu cực XH lan rộng 
vv...Vì vậy, sự nghiệp chống nghèo đói không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với 
các nước phát triển. Tại khóa họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển 
XH, tháng 6 năm 2000 tại Genever - Thụy Sỹ, các thành viên đã thống nhất cam kết, phấn 
đấu giảm một nữa số người nghèo trên thế giới. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy 
mạnh chiến dịch "Tấn công vào nghèo đói" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược 
toàn diện về XĐGN. Tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9 năm 2000 của Liên Hợp Quốc 
tại Washington (Mỹ), một lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một trong những mục 
tiêu ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ 21 [18, tr.3]. Tuy nhiên quá trình 
thực hiện XĐGN ở mỗi quốc gia có cách làm và giải pháp khác nhau. Lý do cơ bản có 
những khác nhau đó là ở mỗi quốc gia khác nhau, có trình độ phát triển KT-XH, điều kiện 
địa lý tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, chính trị khác nhau nên khả năng đáp ứng các nhu 
cầu hưởng thụ vật chất, tinh thần cho dân chúng có khác nhau. Ngay trong một quốc gia 
thì ở mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau thì khả năng đáp ứng các nhu cầu trên cho 
dân chúng cũng khác nhau. Điều đó dẫn đến quan niệm về đói nghèo của các quốc gia có 
sự khác nhau và các giải pháp XĐGN cũng có sự khác nhau. 
Để xây dựng các giải pháp XĐGN, cần thiết phải có quan niệm đúng về nghèo đói 
và có sự thống nhất chung cho các quốc gia về các khái niệm nghèo đói. Nếu có sự khác 
nhau giữa các quốc gia thì đó chỉ là sự khác nhau về cách tiếp cận, chứ không phải khác 
nhau về bản chất của nghèo đói. 
Trên thế giới vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều gốc độ và khía cạnh khác nhau, 
trong đó có khía cạnh kinh tế- xã hội theo các nghĩa rộng, hẹp khác nhau, cụ thể là: 
Các nhà khoa học có nhiều định nghĩa về nghèo như: Nghèo về vật chất, nghèo về 
tri thức, nghèo về văn hóa, nghèo về điều kiện sinh hoạt vv... Còn đói là khái niệm dùng để 
phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Do vậy, nghèo đói hay đói nghèo là 
khái niệm kép. Trong tư duy của người Việt nam, đói có 2 dạng là đói kinh niên và đói gay 
gắt; nghèo cũng có 2 dạng là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nhưng dù ở dạng nào thì 
đói nghèo cũng có quan hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh cấp độ và mức độ khác nhau, 
"nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo"[20, tr 18]. 
Nếu nghèo kéo dài và không ra khỏi vòng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì dễ lâm 
vào tình trạng đói rách, cùng quẫn. 
Abapiasen-chuyên gia hàng đầu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: 
nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào sự phát triển cộng đồng [19, tr 20]. 
UNDP đã đưa ra những định nghĩa nghèo [3, tr 27], như sau: 
- Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết 
đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ. 
- Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối 
thiểu. 
- Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như 
không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những 
nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay nước khác. 
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do 
ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Bangkok (Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã 
thống nhất cho rằng:"nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và 
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được XH thừa nhận, tùy theo trình độ 
phát triển KT-XH và phong tục tập quán của từng địa phương [2, tr 8]. Đây là khái niệm 
tương đối đầy đủ và bao quát, nên có thể coi đây là định nghĩa chung nhất và có tính 
hướng dẫn về phương pháp nhận diện nét chính yếu phổ biến về đói nghèo của các quốc gia. 
Tuy nhiên, các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa chưa được xác định vì còn phải tính 
đến sự khác biệt về mặt chênh lệch giữa các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển 
của mỗi vùng, miền khác nhau. Ưu điểm của khái niệm này là: Làm rõ được bộ phận dân cư 
nghèo đói là: "Tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán từng địa phương"... 
Nghèo có 2 dạng: Nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối. Nghèo tuyệt đối là tình 
trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy 
trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản, tối thiểu đó là mức bảo đảm tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở, 
nước sinh hoạt, y tế, giáo dục và vệ sinh môi trường. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ 
phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. 
Như vậy, nghèo đói là khái niệm mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian. 
Nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng một bộ phận dân cư có thu 
nhập thấp, không cho phép thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu; trước hết là ăn-gắn liền với 
dinh dưỡng. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc gia và cũng được mở 
rộng dần. Còn nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận 
dân cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì vậy, nhiều 
nhà nghiên cứu cho rằng: Việc xóa dần nghèo tuyệt đối là việc có thể làm, còn nghèo 
tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng 
cách chênh lệch giàu-nghèo. Khái niệm nghèo tuyệt đối được sử dụng để so sánh mức độ 
nghèo khổ giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm quốc gia nghèo là 
đất nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ 
tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc 
tế. Còn trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta dùng khái niệm nghèo tuyệt đối. 
Quan niệm nghèo đói của Việt Nam: Dựa trên các khái niệm của các tổ chức thế 
giới, Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể hơn và được nghiên cứu ở các cấp độ: cá 
nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 
1998-2000 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng 
nghèo...và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể. 
Về khái niệm nghèo của Việt Nam thì cơ bản thống nhất với khái niệm nghèo đói 
của ESCAP. 
Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và 
thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân 
cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu 
khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần túy là 
đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn 
hóa, thuộc phạm trù văn hóa tinh thần. 
Khái niệm đói cũng có hai dạng; đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt). 
- Đói kinh niên:Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét. 
- Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân 
như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét. 
- Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành 
đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát... 
- Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm, 
không có khả năng phát triển sản xuất. 
- Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng 
thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch vv...trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ 
cao. 
- Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, 
giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao. 
Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất và đặc 
trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và 
trình độ phát triển kinh tế-xã hội của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý 
nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải 
pháp XĐGN ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay. 
 1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo 
 Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây: 
 Tiêu chí có nghĩa là: tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự 
vật, một khái niệm [21, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính. 
 Chuẩn có nghĩa là: Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà 
làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường; cái được công nhận là 
đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen trong xã hội [21, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang 
tính định lượng. Từ đó ta có thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức 
quốc tế quy định về mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo, 
còn ai vượt qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Chuẩn là công cụ để phân 
biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có quan 
hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại 
 a) Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới: 
 Để đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối thu nhập 
theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu nhập cho từng cá 
nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, nó không quan tâm đến nguồn 
mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư. 
Phương pháp tính là: Đem chia dân số của một nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5 
nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. 
Theo cách tính này, vào những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập 
toàn thế giới, trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy nhóm giàu nhất gấp 59 lần 
nhóm nghèo nhất [22, tr.11]. 
 Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu, nghèo 
của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người trong một 
năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo 
USD. Phương pháp PPP (purchasing power parity), là phương pháp tính theo sức mua 
tương đương và cũng tính bằng USD. 
 Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của các nước trên 
toàn thế giới làm 6 loại: 
 + Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu. 
 + Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu. 
 + Từ 10.000 đến dưới 20.000USD/người/năm là nước khá giàu. 
 + Từ 2.500 đến dưới 10.000USD/người/năm là nước trung bình. 
 + Từ 500 đến dưới 2.500USD/người/năm là nước nghèo. 
 + Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo. 
 Theo phương pháp thứ hai, WB muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung cho toàn 
thế giới. Trên cơ sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả hàng hóa, thực 
hiện phương pháp tính "rỗ hàng hóa" sức mua tương đương để tính được mức thu nhập 
dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. WB đã tính mức năng lượng tối thiểu cần thiết 
cho một người để sống là 2.150calo/ngày. Với mức giá chung của thế giới để đảm bảo 
mức năng lượng đó cần khoảng 1USD/người/ngày. Từ đó, năm 1995 WB đã đưa ra c