Đề tài Nghiên cứu nho giáo và sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam

Nho giáo sinh ra từ một xã hội chiếm hữu nô lệ trên đường suy tàn, vì vậy, Khổng tử đã luyến tiếc và cố sức duy trì chế độ ấy bằng đạo đức. “Đạo” theo Nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hoá của trời đất, muôn vật. Đối với con người, đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của con người, theo quan điểm của Nho gia là phải phù hợp với tính của con người lập nên. Chính vì vậy, Nho giáo tác động mạnh mẽ đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người và tác động vào các khu vực khác của đời sống xã hội cũng như đối với xã hội Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của Nho giáo đến thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, tư tưởng của Nho giáo đã giúp chúng ta hiểu rõ tâm lý của người dân hơn và qua đó tìm được một phương cách để hướng cho họ một nhân cách chính và đúng đắn. Tóm lại, nghiên cứu Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội, con người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng phát triển của nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.

pdf16 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu nho giáo và sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z LUẬN VĂN: Nghiên cứu Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội, con người Việt Nam Lời Mở đầu Nho giáo sinh ra từ một xã hội chiếm hữu nô lệ trên đường suy tàn, vì vậy, Khổng tử đã luyến tiếc và cố sức duy trì chế độ ấy bằng đạo đức. “Đạo” theo Nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hoá của trời đất, muôn vật. Đối với con người, đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của con người, theo quan điểm của Nho gia là phải phù hợp với tính của con người lập nên. Chính vì vậy, Nho giáo tác động mạnh mẽ đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người và tác động vào các khu vực khác của đời sống xã hội cũng như đối với xã hội Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của Nho giáo đến thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, tư tưởng của Nho giáo đã giúp chúng ta hiểu rõ tâm lý của người dân hơn và qua đó tìm được một phương cách để hướng cho họ một nhân cách chính và đúng đắn. Tóm lại, nghiên cứu Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội, con người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng phát triển của nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai. I. Khát quát chung về Nho gia. 1. Nho gia là gì. Tại Trung hoa cổ đại, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ III trước Công nguyên, thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc đã phát sinh ra các hệ thống, các dòng tư tưởng triết học bao gồm: Nho giáo, Mặc gia, Đạo gia, Danh gia, Pháp gia, âm dương gia. Trong đó Nho giáo là học thuyết lớn nhất trong lịch sử chính trị, đạo đức của dân tộc Trung hoa và có ảnh hưởng rất lớn ở á Đông (Nhật bản, Triều tiên, Việt nam). Nho giáo là một trường phái do Khổng Tử, tên thật là Khâu, hay còn gọi là Trọng Ni, người nước Lỗ (551 - 479 trước Công nguyên, thời Xuân Thu - Chiến quốc) sáng lập. Khổng Tử là người mở đường vĩ đại của lịch sử tư tưởng trung quốc cổ đại. ông là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung quốc cổ đại. Ông đã hệ thống những tri thức tư tưởng đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị riêng, gọi là Nho giáo. Học thuyết của ông được hai nhà tư tưởng là Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển. Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử theo hướng duy vật. Trong lịch sử sau này dòng Khổng Mạnh có ảnh hưởng lâu dài nhất. Từ nhà Hán trở đi, Nho giáo được nhiều nhà tư tưởng phát triển và sử dụng theo môi trường xã hội của nó. Nho giáo được ra đời trong bối cảnh lịch sử sau: Về kinh tế, lực lượng sản xuất đã có những bước tiến lớn, nhiều ngành nghề mới ra đời , cộng thêm sự suy yếu của thế lực chính trị nhà Chu đã làm cho chế độ kinh tế "Tỉnh điền" tan rã. Trong xã hội xuất hiện sở hữu tư nhân về đất đai và do đó xuất hiện giai cấp mới là giai cấp địa chủ. Về chính trị, suốt thời Xuân Thu, mệnh lệnh của "Thiên tử nhà Chu" không còn được tuân thủ; trật tự lễ nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn; đạo đức suy đồi. Đây là thời mà "Vua không ra đạo vua, tôi chẳng ra đạo tôi". Triết học tại thời điểm này trong xã hội nảy sinh ra hai mâu thuẫn lớn, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ và tầng lớp thống trị quý tộc thị tộc nhà Chu và mâu thuẫn thứ hai gay gắt hơn nhiều, là mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp địa chủ, mâu thuẫn thứ hai biểu hiện là thế lực nào cũng muốn bá chủ Trung nguyên, dẫn tới cuộc chiến tranh giữa các dòng họ, đẩy xã hội vào thời kỳ loạn lạc, thời "Đánh nhau tranh thành, thì giết người thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất thì giết người thây chết đầy đồng". Về văn hoá, người Trung hoa đã sáng tạo ra tri thức về nhiều lĩnh vực, đạt được kiến thức vượt thời đại. Chính trong thời đại lịch sử biến chuyển sôi động đó đã đặt ra một loạt những vấn đề xã hội và triết học mới, buộc các nhà tư tưởng phải quan tâm lý giải và làm nảy sinh một loạt các trường phái triết học đa dạng. Các dòng tư tưởng triết học thời này đều có chung một đặc trưng là quan tâm giải quyết các vấn đề chính trị - đạo đức - xã hội và không quan tâm tới tôn giáo. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến, trong tầng lớp quý tộc cũ nhà Chu, Khổng Tử chủ trương lập lại kỷ cương nhà Chu. Với mục đích ấy, ông đã lập ra học thuyết mở trường dạy học, đi chu du khắp các nước chư hầu làm thuyết khách mong làm sáng đạo của mình trong thiên hạ. Ông chủ trương xây dựng mẫu người quân tử dùng "đức trị, lễ trị" để đưa xã hội từ chỗ hỗn loạn trở nên ổn định. Tư tưởng trung tâm của Nho giáo là những vấn đề về chính trị, đạo đức của con người và xã hội. 2. Một số tư tưởng chủ yếu của Nho gia. 2.1. Quan điểm về bản chất con người. Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính có sẵn và bất biến của con người. Đức Khổng Tử và Mạnh Tử đều quan niệm bản tính con người ta sinh ra vốn thiện. Bản tính "Thiện" ở đây là tập hợp các giá trị chính trị, đạo đức của con người. Vậy "Thiện" là gì? Thiện là rộng lượng, những đức tính có sẵn mang tính chân thiện mỹ như: Người ta ai cũng có lòng nhân ái, yêu thương con người (đức Nhân), ai cũng có lòng biết ơn trong quan hệ (đức Nghĩa), ai cũng biết liêm sỉ, ai cũng có lòng cung kính, tôn trọng bề trên, nhường kẻ dưới (đức Lễ), ai cũng hiểu và biết làm điều thiện, biết xử lý công việc bằng kiến thức, lý trí của mình (đức Trí), ai cũng có sự tin tưởng vào nhau (đức Tín). Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là năm giá trị đạo đức lớn của con người. Ngũ thường là có sẵn và bất biến trong mỗi con người. Xuất phát từ quan niệm cho rằng bản tính của con người là thiện, Khổng Tử đã xây dựng phạm trù "Nhân" với tư cách là phạm trù trung tâm trong triết học của ông. Theo ông, một triều đại muốn thái bình thịnh trị thì người cầm quyền phải có đức Nhân, một xã hội muốn hoà mục thì phải có nhiều người theo về điều Nhân. Chữ Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ: "cung, khoan, tín, mẫn, tuệ". Cung thì không khinh nhờn,khoan thì được lòng người, tín thì người tin cậy, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người. Người có đức nhân phải là người "trước làm điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch kết quả". Theo Khổng Tử, người muốn đạt được đức nhân phải là người có "Trí" và "Dũng". Nhờ có Trí, con người mới có sự sáng suốt minh mẫn để hiểu biết được đạo lý, xét đoán được sự việc, phân biệt được phải - trái, thiện - ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp "thiên lý ". Người có Dũng ở đây theo Khổng Tử không phải là kẻ ỷ vào sức mạnh, vì lợi mà suy nghĩ và hành động bất chấp đạo lý. Người nhân có Dũng phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn nạn. Người nhân có Dũng mới tự chủ được mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Với Khổng Tử, đạo sống của con người là phải "Trung dung, trung thứ", nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với người, thương mình như thương người, việc gì mình không muốn chớ đem cho người, mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt. Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân là cái gốc đạo đức của con người, thì theo ông, để trở thành một con người hoàn thiện, một điều kiện tất yếu khác là phải "hiểu biết mệnh trời" để sống "thuận mệnh". Ông viết: "Không biết mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử", nhưng ông kêu gọi mọi người trước hết phải tìm sức mạnh vươn lên ở trong chính bản thân mỗi người, đừng trông chờ vào trời đất quỷ thần: "Đạo người chưa biết thì làm sao biết được đạo quỷ thần". Con người phải chú trọng vào sự nỗ lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực, còn việc thành bại như thế nào, lúc đó mới tại ý trời. Tuy nhiên trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con người vốn có bản tính thiện thì Tuân Tử đưa ra lý luận bản tính con người là ác: "Tính người là ác, thiện là do người làm ra"; nhưng trong quan điểm sai lầm đó cũng có nhân tố hợp lý như: hành vi đạo đức của con người là do thói quen mà thành, phẩm chất con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập, giáo dục lâu ngày mà nên, từ đó ông cho rằng có thể giáo dục, cải hoá con người từ ác thành thiện được. Nếu ra sức tu dưỡng đạo đức thì bất cứ người nào cũng đều có thể đạt được địa vị "người quân tử". Tuân Tử đề cao khả năng và vai trò của con người. Ông khẳng định trời không thể quyết định được vận mệnh của con người. Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Nếu ý chí của con người hành động thuận theo trật tự của giới tự nhiên thì sẽ được hạnh phúc, trái lại thì sẽ gặp hoạ. Tiến lên một bước nữa, ông đề ra học thuyết con người có thể cải tạo được tự nhiên. Ông cho rằng con người không thể chờ đợi tự nhiên ban phát một cách bị động mà phải vận dụng tài trí, khả năng của mình, dựa vào quy luật của tự nhiên mà sáng tạo ra những của cải, sản vật để phục vụ cho đời sống con người. Như vậy, Nho giáo thể hiện là một học thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn thấy nét đẹp của con người và rất tin tưởng vào con người, tin tưởng vào khả năng giáo dục con người. 2.2. Quan điểm về xã hội học. Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã hội bởi vì khi giải quyết những vấn đề xã hội, Nho giáo không xuất phát từ việc phân tích cơ sở kinh tế của xã hội như triết học Mác, mà xuất phát từ những quan hệ chính trị - đạo đức, coi đó là quan hệ nền tảng của đời sống xã hội. Nho giáo quy tất cả những quan hệ xã hội về quan hệ chính trị - đạo đức. Nho giáo khái quát những quan hệ chính trị - đạo đức ấy vào ba mối quan hệ rường cột, gọi là tam cương, bao gồm: - Quan hệ vua - tôi. - Quan hệ cha - con. - Quan hệ chồng - vợ. Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo đặc biệt quan tâm tới những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình. Quan hệ gia đình ở đây mang tính chất tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn trước hết thể hiện ở chỗ có giữ vững được ba quan hệ ấy hay không. Xã hội là tam cương - tam cương là quốc gia. Mỗi cương thay đổi xã hội loạn. 2.3. Quan điểm về giáo dục. Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý tưởng cao nhất của đức Khổng Tử cũng như các tác giả sau này của Nho giáo là xây dựng một xã hội "Đại đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên nền tảng của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội "an hoà", trong đó sự an hoà được đặt trên nền tảng của sự công bằng xã hội. Xã hội an hoà ở đây là xã hội bao gồm nhiều quốc gia lớn nhỏ, mạnh yếu khác nhau, trong đó quốc gia nhỏ yếu thờ phụng quốc gia lớn mạnh và ngược lại, quốc gia lớn mạnh che chở cho quốc gia nhỏ yếu. Xã hội mà mọi người sống hoà thuận giữa trong ngoài, trên dưới, trưởng thứ,... trong đó người bề trên vui vẻ mà trị, không ỷ thế quyền lực; người dưới vui vẻ mà nhận sự trị, không oán hờn. Một xã hội lấy hoà thuận, khoan thứ làm đầu; không cần có một nền kinh tế phát triển mà chỉ cần công bằng xã hội. Khái niệm công bằng của Nho giáo không phải là thứ quan niệm "cào bằng" tiểu nông mà là công bằng trên cơ sở địa vị xã hội của mỗi cá nhân, mỗi dòng họ. Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng, xã hội an hoà trên, Nho giáo không đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một nền giáo dục. Đức Khổng Tử là người đầu tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn dân. Có giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn nhận hành động trong cuộc sống cho đúng. Theo Khổng Tử: Tại học tri đại là học cho đến mức biến hoá được con người, làm cho người gần khâm phục, người xa yêu mến; Tại thân dân là sự học phải xuất phát từ tình yêu thương con người. Bởi vì đạo học là đạo người, chỉ có ai có tình thương yêu con người thì mới hiểu được lý lẽ của sự học. Tại chi vi chi thiện là học cho đến hoàn thiện.. Muốn vậy phải đến nơi có sự kiện, sự vật mà tìm hiểu ngọn nguồn của tạo hoá. Mục đích của sự học là tạo lập ý chí, lý tưởng nhân cách và hoàn thành nhiệm vụ. Học phải đạt đến: Thành ý - Chánh tâm - Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ. Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục, hướng vào việc giáo dục những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa, được nêu gương sáng trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho giáo là chỉ dạy làm người nói chung, không hề đề cập đến khoa học, kinh tế, nghề nghiệp, tức không hướng vào phương diện kỹ nghệ và kinh tế. Thừa thời gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên lệch. Đồng thời , nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên tắc tự nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương. 2.4. Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc). Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu nguyên tắc quản lý xã hội như sau: - Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung ương tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào một người là Hoàng đế. Thời Khổng Tử, để thực hiện chế độ tập quyền, xây dựng chế độ công hữu về đất đai (đất đai thuộc nhà vua). Đức Khổng Tử rất ca ngợi chế độ kinh tế "tỉnh điền". - Nguyên tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản lý xã hội. "Chính danh" nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương vị, địa vị của mình: vua phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha, con phải ra đạo con, chồng phải ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ... Nếu như mọi người không chính danh thì xã hội ắt trở nên loạn lạc. Không thể có một xã hội trị bình mà nguyên tắc chính danh bị vi phạm. Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa danh và thực. Thực do học, tài và phận quy định. - Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị. Đây là nguyên tắc có tính chất đường lối căn bản của Nho giáo. Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi người tự giác tuân theo. Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ giao tiếp trong trị quốc. Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân trạch của hoàng cung tới bốn phương. Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh quân biết sử dụng ba loại người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và Nghệ tinh. Nhà vua muốn trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và thực hiện ba điều: + Kính sự: Chăm lo đến việc công. + Như tín: Giữ lòng tin với dân. + Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng. Về đạo Vua - Tôi, Khổng Tử viết: "Vua phải tự mình làm thiện, làm phải trước thiên hạ để nêu gương và phải chịu khó lo liệu giúp đỡ dân". Theo ông, nhà cầm quyền phải thực hiện ba điều: "Bảo đảm đủ lương thực cho dân được no ấm, phải xây dựng được lực lượng binh lực mạnh để đủ bảo vệ dân, phải tạo lòng tin cậy của dân đối với mình". Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều kiện trên thì trước hết hãy bỏ binh lực, sau đó đến bỏ lương thực, nhưng không thể bỏ lòng tin của dân đối với vua, nếu không thì chính quyền xã tắc sẽ sụp đổ. Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lòng trung của mình đối với vua. Tiếp tục thuyết " Nhân trị" của Khổng Tử, Mạnh Tử đề ra tư tưởng " Nhân chính". Theo Mạnh Tử, việc chăm dân, trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi và Mạnh Tử chủ trương một chế độ "bảo dân", trong đó người trị vì phải lo cái lo cho dân, vui cái vui của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no đủ, như thế dân không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa phải giữ mình khiêm cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế của dân có chừng mực. Đặc biệt Mạnh Tử có quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về nhân quyền. Ông nói: "Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ vi", vì theo ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua. Thậm chí ông cho rằng dân có khi còn quan trọng hơn vua. Kẻ thống trị nếu không được dân ủng hộ thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn ác, không hợp với lòng dân và ý trời thì sẽ có thể bị truất phế. - Nguyên tắc 3: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội. Đức Khổng Tử đã nói: "Không lo thiếu mà lo không đều, Không lo nghèo mà lo dân không yên". Sự không công bằng là đầu mối của loạn xã hội. Cơ sở công bằng trong tôn giáo: + Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng. + Theo phái Nho giáo: Công bằng trên cơ sở danh của mình. Tức là công bằng theo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo chức vụ, địa vị. II. sự ảnh hưởng của nho giáo ở việt nam. Tư tưởng Nho giáo chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng Trung quốc. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội Trung quốc suốt hơn 2000 năm lịch sử và một số nước á đông khác như Nhật bản, Triều tiên, Hàn quốc... Bắt đầu từ thời kỳ nhà Hán cho đến triều Mãn Thanh, Nho giáo đã trở thành tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Muốn duy trì một trật tự xã hội, lý thuyết phương Đông là mong muốn duy trì ổn định xã hội. Ngày nay, dưới góc độ ổn định xã hội thì những bài học triết lý của Nho giáo có tác dụng ổn định quan hệ chính trị - xã hội, quan hệ gia đình. Nho giáo tin tưởng vào bản tính thiện của con người, vì vậy mà rất đề cao giáo dục. Tuy Nho giáo cũng có nhiều tư tưởng về kinh tế, quân sự, ngoại giao nhưng không quán xuyến và sâu sắc. Nho giáo vào Việt nam từ những năm cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và trở thành quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh hưởng của truyền thống dân tộc Việt nam và Phật giáo. ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta có cả mặt tích cực và tiêu cực. 1. ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ở Việt Nam. ảnh hưởng tích cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau: - Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ chủ quyền dân tộc. Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm... Những thể chế chính trị, lễ nghi đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt nam. Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến và phát triển, thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa... Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật tự,... ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam, nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến. - Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. Nhiều ý nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như: + "Tiên học lễ, hậu học văn" là khẩu hiệu trong các trường học Việt nam từ xưa đến nay. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo và đã đưa vào đó những nội dung mới như: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung, hiếu, ..." + Tư tưởng "Trăm năm trồng người" và "Hữu giáo vô loại"