Sự chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi đúng đắn cuả Đảng và
Nhà nước ta. Những thành tựu đã đạt được trong 15 năm qua là sự cố gắng của
nhiều cấp nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế đem lại bộ mặt phát triển cho Việt
Nam tạo bước đi và khẳng định vị thế trong khu vực và trên thế giới. Một trong các
yếu tố đem lại thành công thì vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn là yếu tố quan
trọng và cơ bản nhất bởi lẻ nó là điều kiện cần thiết, yêu cầu tất yếu đối với quá
trình phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đặc biệt là Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Tích luỹ vốn để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng cho mục
tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong doanh nghiệp vấn đề tích luỹ vốn được xem là yếu tố để doanh nghiệp
có thể mở rộng sản xuất tăng khả năng cạnh tranh và đem lại thu nhập cao trong
tương lai, cùng với nó việc phân bố và sử dụng hiệu quả cũng là bài toán đòi hỏi các
doanh nghiệp cần có sự lựa chọn và đưa ra các quyết định cần thiết. Thấy rõ được
tầm quan trọng của việc tích luỹ vốn hiện nay, trong giới hạn của bài viết này em
tập trung nghiên cứu vấn đề tích luỹ tư bản ở các góc độ mặt chát và mặt lượng
đồng thời đưa ra các giải pháp có tính khả thu nhằm thúc đẩy quá trình tích luỹ đáp
ứng nhu cầu trong doanh nghiệp nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung trong giai
đoạn tới. Bài viết dưới dạng để án của môn Kinh tế chính trị nên nội dung gồm có:
Phần I : Lý luận chung về tích luỹ tư bản
Phần II: Làm rõ các khái niệm: doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phần III: ý nghĩa thực tiênhững mà việc nghiên cứu.
22 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3063 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu vấn đề tích luỹ tư bản đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình tích luỹ cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
lý thuyết tích luỹ tư bản về mặt chất, mặt
lượng và ý nghĩa của nó với việc quản lý
các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
đặt vấn đề
Sự chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi đúng đắn cuả Đảng và
Nhà nước ta. Những thành tựu đã đạt được trong 15 năm qua là sự cố gắng của
nhiều cấp nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế đem lại bộ mặt phát triển cho Việt
Nam tạo bước đi và khẳng định vị thế trong khu vực và trên thế giới. Một trong các
yếu tố đem lại thành công thì vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn là yếu tố quan
trọng và cơ bản nhất bởi lẻ nó là điều kiện cần thiết, yêu cầu tất yếu đối với quá
trình phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đặc biệt là Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Tích luỹ vốn để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng cho mục
tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong doanh nghiệp vấn đề tích luỹ vốn được xem là yếu tố để doanh nghiệp
có thể mở rộng sản xuất tăng khả năng cạnh tranh và đem lại thu nhập cao trong
tương lai, cùng với nó việc phân bố và sử dụng hiệu quả cũng là bài toán đòi hỏi các
doanh nghiệp cần có sự lựa chọn và đưa ra các quyết định cần thiết. Thấy rõ được
tầm quan trọng của việc tích luỹ vốn hiện nay, trong giới hạn của bài viết này em
tập trung nghiên cứu vấn đề tích luỹ tư bản ở các góc độ mặt chát và mặt lượng
đồng thời đưa ra các giải pháp có tính khả thu nhằm thúc đẩy quá trình tích luỹ đáp
ứng nhu cầu trong doanh nghiệp nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung trong giai
đoạn tới. Bài viết dưới dạng để án của môn Kinh tế chính trị nên nội dung gồm có:
Phần I : Lý luận chung về tích luỹ tư bản
Phần II: Làm rõ các khái niệm: doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phần III: ý nghĩa thực tiênhững mà việc nghiên cứu.
Giải quyết vấn đề
A. Lý luận chung về tích luỹ tư bản
I. Mặt chất của tích luỹ tư bản.
1. Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản.
Để làm rõ khái niệm thế nào là tích luỹ tư bản?
Chúng ta cần phân biệt tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp đi
lặp lại và đổi mới không ngừng theo một qui mô không đổi năm sau bằng năm
trước, còn tái sản xuất mở rộng cũng là quá trình sản xuất và đổi mới không ngừng
với qui mô năm sau lớn hơn năm trước. Đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa tư bản là
tái sản xuất mở rộng (mở rộng sản xuất) muốn thực hiện điều đó thì số giá trị thặng
dư mà nhà tư bản bóc lột của công nhân không được đem hết cho tiêu dùng mà phải
giành một phần cho tích luỹ để mua thêm tư bản khả biến và tư bản bất biến cho
đầu vào của quá trình sản suất. Như vậy tích luỹ tư bản bằng cách tư bản hoá giá trị
thặng dư.
Ví dụ: Có một nhà tư bản cá biệt có lượng tư bản là 100(đv) trong đó gồm
80c và 20v. Nếu m’=100% thì sẽ thu được 20m. Giả sử trong 20m đó một nửa dành
cho tiêu dùng cá nhân và một nửa cho tích luỹ (10m) số 10m này 8m cho c phụ
thêm và 2m cho v phụ thêm. Như vậy đầu năm sau lượng tư bản sẽ là 110(đv) trong
đó 88c và 22v.
ở đây hưởng thụ của nhà tư bản và ý muốn làm giàu của họ về cơ bản là
thống nhất với nhau vì ý muốn làm giàu tuy trước mắt có thể ảnh hưởn tới hưởng
thụ của nhà tư bản nhưng về lâu dài nó lại tăng hưởng thụ của nhà tư bản do đó ý
muốn chủ quan của nhà tư bản phù hợp với qui luật khách quan của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Ngày nay tư bản tích luỹ chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong
toàn tư bản, lúc đầu bằng một lượng tư bản nhỏ và tài khéo léo của mình mà nhà tư
bản đã làm cho qui mô và lợi nhuận không ngừng lớn mạnh. Các-mac đã nói “Tư
bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của sự tích luỹ mà thôi”.
Động cơ của TLTB và tái sản xuất mở rộng TBCN. Mục đích của sản xuất tư
bản là sự lớn lên không ngừng của giá trị để thực hiện mục tiêu đó các nhà tư bản
không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở rộng xem đó là phương tiện để bóc lột
công nhân và làm giàu cho bản thân.
Như vậy tích luỹ giữ vai trò quyết định làm cho nền sản xuất tư bản lớn
nhanh muốn tái sản xuất mở rộng thì phải có vốn lớn tích luỹ là nguồn gốc cơ bản
tạo ra vốn lớn đó. Tích luỹ vốn gắn chặt với quá trình tái sản xuất mở rộng vì vậy
muốn mở rộng sản xuất thì nhà tư bản phải tích luỹ vốn và chiếm dụng vốn . Mặt
khác do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải tích luỹ không ngừng làm cho tư bản
của mình tăng lên. Nếu không tích luỹ thì không thể đứng vững trên thị trường đồng
nghĩa với sự phá sản. Trên thực tế ban đầu nhà tư bản rất tiết kiệm để đầu tư mở
rộng sản xuất để hy vọng vào kết quả đầu tư sản xuất của mình và tiêu dùng tư bản
tăng lên cùng với thời gian cùng với sự lớn mạnh của qui mô tích luỹ.
ở nước ta thì tích luỹ là để mở rộng sản xuất nâng cao hiệu quả sản xuất và
xã hội vì mục tiêu cuả giai cấp công nhân và của toàn xã hội, mục tiêu “dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Tích luỹ vốn được chúng ta coi là chiến
lược và là chìa khoá của sự thành công trong quá trình phát triển.
2. Mặt lượng của tích luỹ.
Mặt lượng của tích luỹ TB chính là qui mô khối lượng của tư bản cho tích
luỹ, nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tư bản dành cho tích luỹ chính là
khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư k cho tiêu
dùng và đầu tư của nhà tư bản. Do đó nhân tố làm tăng qui mô tích luỹ cũng chính
là nhân tố làm tăng lượng giá trị thặng dư các nhân tố đó là:
Một là mức độ bóc lột sức lao động công nhân làm thuê cho nhà tư bản có
nghĩa là họ đã bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tận dụng thuần lợi này
nhà tư bản bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công nhưng biện pháp
mà nhà tư bản áp dụng chủ yếu đó là tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao
động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động đã làm khối lượng giá
trị thặng dư tăng lên và đã làm tăng tích luỹ. Việc tăng cường độ lao động và kéo
dài ngày lao động còn mang lại thuận lợi nữa đó là nhà tư bản được nhiềusản phẩm
lao động hơn trong khi không cần tăng thêm tư bản bất biến mà chỉ cần tăng thêm
nguyên vật liệu.
Hai là trình độ năng xuất xã hội, việc nâng cao năng xuất xã hội làm tăng
thêm giá trị thặng dư và tăng thêm yếu tố vật chất cho qúa trình tích luỹ khoa học kĩ
thuật phát triển thì qui mô của tích luỹ càng lớn và do đó ảnh hưởng đến qui mô của
tư bản xã hội.
Ba là sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Trong quá trình
sản xuất các bộ phận cấu thành nên máy móc đều hoạt động tức là nó tham gia hết
vào quá trình sản xuất nhưng chúng chỉ hao mòn dần do đó giá trị được chuyển từng
sản phẩm do vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Những
máy móc khi đã khấu hao hết nhưng vẫn thể dùng cho sản xuất chẳng khác nào lực
lượng tư bản.
Bốn là qui mô của tư bản ứng trước; với một trình độ bóc lột không đổi thì
khối lượng gía trị thặng dư phụ thuộc vào tư bản ứng trước, do vậy tư bản ứng trước
càng nhiều thì khối lượng giá trị thặng dư càng lớn.
Xuất phát từ công thức
v
m
m '
Khi m’ không đổi thì v càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư càng nhiều
tạo điều kiện để tăng qui mô của tích luỹ TB. Ngày nay do cấu tạo hữu cơ tư bản
c/m tăng lên mới nhìn ta tưởng rằng người lao động ngày càng được nghỉ ngơi thế
nhưng thực tế ngược lại họ càng phải làm việc căng thẳng bị vắt kiệt sức bởi cường
độ lao động và sự tập trung cao độ trong lao động.
3. Mối quan hệ giữa tích luỹ, tích luỹ tập trung tư bản.
Một trong những qui luật của tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung
vốn ngày càng tăng. Tích tụ vốn là sự tăng lên của qui mô tư bản cá biệt bằng việc
biến một phần lợi nhuận thành vốn đầu tư phụ thêm vào chu kì sản xuất tiếp theo
tích tụ vốn là kết quả của quá trình tích luỹ vốn. Khối lượng lợi nhuận mà doanh
nghiệp tạo ra ngày càng lớn chính là điều kiện để doanh nghiệp có thể chuyển một
phần lợi nhuận để tích luỹ vốn và không ngừng tăng qui mô sản xuất.
Trong quá trình tích luỹ vốn còn xảy ra quá trình tập trung tư bản. khác với
tích luỹ và tích tụ tập trung tư bản là tập trung khối lượng lớn vào tay một người
này thì nó biến khỏi tay nhiều người ở nơi khác. Sự tiến bộ của tích luỹ cũng làm
tăng thêm vật liệu cho sự tập trung tức là làm tăng thêm vật liệu theo sự tập trung
tức là làm tăng thêm những tư bản cá biệt vì vậy muốn thực hiện thì trước đó phải
tập trung tư bản. Như vậy tập trung vốn là sự tăng thêm qui mô vốn của doanh
nghiệp cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều doanh nghiệp cá biệt có sẵn thành một
doanh nghiệp mới có qui mô lớn hơn.
Tập trung vốn có thể được thực hiện theo kiểu cá lớn nuốt cá bé hoặc chính
quá trình cạnh tranh sẽ thúc đẩy các nhà doanh nghiệp riêng lẻ liên kết lại với nhau
hình thành nên những tập đoàn kinh tế lớn nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường
và mặt khác cũng là sự phá sản. Hơn nữa tập trung vốn còn được thực hiện qua con
đường tín dụng, chính tín dụng làm tăng ưu thế của doanh nghiệp có vốn lớn giành
quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thương trường,
thôn tính vốn của các doanh nghiệp cạnh tranh. Tích tụ và tập trung tuy có sự khác
nhau về nguồn tích luỹ nhưng nó đều giúp các doanh nghiệp có đủ vốn để thắng
trong cạnh tranh.
Hiện nay trên thế giới mô hình KTTT đang được áp dụng rộng rãi và đem lại
hiệu quả bên cạnh những mặt hạn chế. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế đặc biệt ở
các nước TB chủ nghĩa diễn ra ngày càng khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp không
ngừng tích luỹ mở rộng sản xuất thông qua các thị trường cổ phiếu, tài chính, tín
dụng tạo ra một xu hướng giảm tiêu dùng để có được những khoản thu nhập lớn
hơn trong tương lai.ở các nước đang trong giai đoạn phát triển thì vấn đề đặt ra là
những khó khăn về kĩ thuật, công nghệ quản lý tiến tiến trình độ chuyên môn, đặc
biệt là vốn yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển. Họ phải khắc phục những
khó khăn đó, trước mắt điều quan trọng nhất họ phải huy động vốn đầu tư cho phát
triển sản xuất. Vấn đề là phải huy động vốn ở đâu và như thế nào để đạt được hiệu
quả tối ưu phải chăng là từ nội lực: thông qua tiết kiệm trong mọi tầng lớp dân cư
mọi tổ chức xã hội, mọi cấp mọi ngành để đẩy mạnh tích luỹ, và huy động từ nước
ngoài qua các chương trình viện trợ, cho vay, liên doanh liên kết. Việt Nam hiện
nay cũng gặp nhiều vấn đề tồn tại trong việc huy động và sử dụng vốn cho quá trình
tích luỹ và tái sản xuất mở rộng đó là bài toán khó đặt ra đòi hỏi sừ nỗ lực của các
doanh nghiệp các thành phần kinh tế.
Tóm lại việc nghiên cứu mặt chất và mặt lượng TLTB có ý nghĩa thực hiện
đối với nước ta. Nếu ta trìu tượng hoá quan hệ TBCN thì các doanh nghiệp của
chúng ta cùng phải tích luỹ để mở rộng sản xuất hiện đại hoá sản xuất. Nguồn gốc
của sự tích luỹ cũng là sản phẩm thặng dư do người lao động tạo ra tạo thành vốn
cho các doanh nghiệp vì vậy các doanh nghiệp cần tăng qui mô tích luỹ mở rộng
sản xuất làm ăn hiệu quả. Quy luật chung của sự tích luỹ tư bản.
Tích luỹ tư bản là nguyên nhân dẫn đến phân cực trong xã hội, xã hội sẽ xuất
hiện hai giai cấp đối lập nhau về quyền lợi một giai cấp gồm một số ít người với số
lượng của cải khổng lồ. Một giai cấp nghèo làm công ăn lương. Đó là biểu hiện của
sự mâu thuẫn trong xã hội tư bản “sự đối lập giữa tính xã hội hoá sản xuất với tính
chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa”. Sự mâu thuẫn sẽ ngày càng trở nên gay
gắt đòi hỏi giai cấp tư bản tự điều chỉnh để cho người lao động có cuộc sống đầy đủ
hơn.
II. Làm rõ hơn khái niệm về doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp trong nền
KTTT định hướng XHCN.
1. Việc ứng dụng lý thuyết này vào thực tiễn là yêu cầu khách quan để nhằm
mục đích em xin trình baỳ các khái niệm làm cơ sở cho việc làm rõ vấn đề. Doanh
nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân thực hiện các hoạt động kinh
doanh trên thị trường nhằm mục đích tăng thêm giá trị tài sản do mình sở hữu. Vốn
là toàn bộ nguồn lực mà doanh nghiệp có thể có cho quá trình đầu vào hoạt động
kinh doanh đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong tình hình hiện nay doanh
nghiệp có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta lú hình thức mà doanh nghiệp tồn tại là doanh nghiệp nhà nước
doanh nghiệp liên doanh liên kết và doanh nghiệp tư nhân. Họ làm ăn nhanh nhậy
và hiệu quả đem lại bộ mặt phát triển cho Việt Nam.
Để tiến hành công việc sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có tư liệu
sản xuất và nhân công mà muốn có nó doanh nhiệp phải có vốn để trang trải cho
hoạt động của mình ngoài vốn do chính chủ doanh nghiệp bỏ ra hoặc được bổ xung
từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra để mở rộng sản xuất thì
doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân cư, các tầng lớp xã
hội hoặc qua các kênh thu vốn như ngân hàng, các tổ chức tín dụng, từ ngân sách
nhà nước, từ nước ngoài.
2. Vai trò của vốn.
Vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội và
tiến bộ xã hội, nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy nhanh
tốc độ kinh tế nhờ đó đời sống nhân dân ngày một nâng cao các nguồn lực về con
người tài nguyên được khai thác hiệu quả hơn từ đó tác động mạnh đến cơ cấu kinh
tế của đất nước được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá. Đại hội Đảng IX đã đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp tiến tới ra nhập các tổ chức thương mại WTO, AFTA...
và hội nhập với thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi sự nỗ lực của toàn
Đảng toàn dân, mọi cá nhân mọi tổ chức trong nền kinh tế đặc biệt phải nhấn mạnh
vai trò chủ đạo của doanh nghiệp vấn đề đặt ra là phải sử dụng nguồn vốn sao cho
đạt hiệu quả cao nhất nhiều yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp phải đổi mới công
nghệ tạo ra sản phẩm nới có sức cạnh tranh cao không những thế vốn còn để tăng
cường để mở rộng sản xuất kinh doanh để đầu tư cho lĩnh vực mới vào công nghệ
mũi nhọn để mở rộng ảnh hưởng trên thị trường của doanh nghiệp. Thực tế đặt ra
cho các doanh nghiệp là phải huy động vón việc này phụ thuộc vào chính sách huy
đoọng vốn của nhà nước và khả năng của từng doanh nghiệp. vì vậy doanh nghiệp
cần phải thực hiện tiết kiệm dồn tiền cho mở rộng sản xuất ở kì tiếp theo.
Ngày nay hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh thật đa dạng họ chủ động
sản xuất kinh doanh trên môi trường ngày càng hoàn thiện họ hoạt động vì quyền
lợi thiết thực của bản thân họ. Doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất ngoài việc
đưa vào nguồn vốn tự có họ phải dựa vào nguồn lực từ nội bộ và từ bên ngoài
doanh nghiệp.
III. ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu.
1. Thực trạng của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
Quá trình hội nhập kinh tế buộc doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn và thách thức. Điều cần thiết nhất là gắn liền với việc thực hiện lộ
trình hội nhập cần phải xây dựng và thực hiện cho được một lộ trình nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế xác định các công việc cụ thể cho từng ngành, từng
giai đoạn đồng thời khẩn trương ban hành các chính sách biện pháp cụ thể và tổ
chức thực hiện triệt để kiên quyết nhằm thực hiện lộ trình đó. Nền kinh tế thị trường
hiện nay đã tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đồng thời có thêm một
số loại thị truờng mới như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường
khoa học công nghệ...
Về vốn đầu tư năm 2000 chính phủ và ngành ngân hàng đã đưa ra nhiều biện
pháp khuyến khích đầu tư vay vốn song tỷ lệ số doanh nghiệp có số vay ngân hàng
vẫn giũ ở mức là 74% trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp đi vay từ nguồn khác tăng lên
63%. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân việc đi vay các nguồn vốn cho đầu
tư phát triển vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay còn
nhiều bất cập về cơ chế xuất khẩu và chất lượng hoạt động nhất là những yếu kiện
trong việc ổn định thị trường thiếu linh hoạt và chủ động trong xử lý giá và thiết lập
các kênh phân phối cho hàng hoá Việt Nam tỷ lệ hàng gia công còn lớn, sản phẩm
có hàm lượng công nghệ cao chiếm tỷ trọng không đáng để dịch vụ cho việc coi
trọng như một lĩnh vực đem lại hiệu quả cao cho xuất khẩu. Một vấn đề quan trọng
khác có liên quan đến sức cạnh tranh trong doanh nghiệp là chi phí đầu vào của
chúng ta quá cao. Tính chung từ 1996 đến nay chi phí đầu vào tăng 32,42% trong
khi tỷ lệ tăng giá đầu ra là 22,82% làm cho tỷ suất doanh lợi bình quân của doanh
nghiệp từ 16,8% giảm xuống còn 6,2% thấp hơn xấp xỉ 2 lần so với các nước trong
khu vực và 3 lần so với Châu Âu. Vấn đề giá nông sản thấp thu nhập của nông dân
ngày càng thu hẹp mặt khác không kém phần quan trọng dẫn các chi phí đầu vào
quá cao về điện, xăng dầu, phân bón, thuỷ lợi, cày bừa... mà trong thời gian qua
chúng ta quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp bảo hộ xử lý đầu ra hơn là các biện
pháp đầu vào để chi phí sản xuất và bán hàng cho nông dân. Tất cả những điều đó là
cho Việt Nam trở thành một nơi đắt đỏ sức cạnh tranh của hàng hoá và thị trường
Việt Nam giảm dần các nhà đầu tư e ngại, thậm chí một số nhà đầu tư lớn đã rút
vốn khỏi Việt Nam ... Vấn đề là ở chỗ hầu hết các chi phí đầu vào hiện nay của
doanh nghiệp đều liên quan đến các ngành độc quyền như điện, xăng dầu, bưu
chính viễn thông, hàng không... Trong thời gian vừa qua các ngành này liên tục tăng
giá hoặc duy trì mức giá cao với nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do phải trả
nợ đầu tư. Đã đến lúc chúng ta cần có một sự nhìn nhận đi vào thực chất hoạt động
và hiệu quả.
Qua những con số điều tra cho thấy số doanh nghiệp nhà nước mới thành lập
tăng lên đánh kể, tổng doanh thu hàng năm làm ra sấp xỉ 300 tỷ đồng, sự phân bổ
doanh nghiệp theo ngành hợp lý hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh
nghiệp nhà nước 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế.
Số doanh nghiệp làm ăn có lãi chiếm 11,3% tổng doanh nghiệp trong đó 11,3% số
doanh nghiệp nhà nước 69,0% số doanh nghiệp địa phương. Lãi thực hiện năm
1999 là 15.271 tỷ đồng. Đối với khu vực tư nhân khi nhà nước ban hành luật công
ty và luật doanh nghiệp thì đến năm 1995 đã có 15.276 doanh nghiệp và đến năm
1999 số doanh nghiệp được thành lập đã lên đến 30.500 tăng gấp 74 lần so với năm
1991. Tổng vốn đầu tư năm 1991 là 6.430 tỷ đồng đến năm 2000 đã lên đến xấp xỉ
160.000 tỷ đồng. Khu vực kinh tế tư nhân có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế
quốc dân tỷ trọng % của khu vực tư nhân chiếm 22,44% khu vực đầu tư nhà nước
35,4% khu vực doanh nghiệp nhà nước 42,16%. Tuy nhiên vẫn còn nhiều những tồn
tại cần phải khắc phục. Số lượng doanh nghiệp nhà nước còn nhiều, qui mô còn
nhỏ, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý, sự phân bổ doanh nghiệp theo
vùng lãnh thổ còn chưa hợp lý. Còn tồn tại nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải
giải thể hoặc sát nhập với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Hiện nay có 1.822
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm 30,8% tổng số doanh nghiệp với số lãi luỹ kế là
5.079 tỷ đồng. Doanh nghiệp còn bị ràng buộc bởi chế độ bảo toàn và phát triển với
điều kiện đi vay ngân hàng, chế độ tiền lương, tiền thưởng và các quyền lợi thiết
thực khác của người lao động.
Đại hội Đảng IX đã khẳng định phải chú trọng phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, tập trung đầu tư cho các mặt hàng có lợi
thì xuất khẩu chủ lực, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự do cạnh tran tìm kiếm thị
trường chuẩn bị cho việc tham gia AFTA, APEC... các giải pháp đề ra cho doanh
nghiệp hiện nay là hoàn chỉnh chính sách, pháp luật xây dựng môi trường kinh
doanh ổn định mở rộng thị trượng trong nước và ngoài nước, tăng cường các dịch
vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân phát triển ổn định và
hiệu quả. Tuy nhiên biện pháp cơ bả