Đất đai luôn là nguồn tài nguyên quý của mọi quốc gia, bởi lẽ đó là tư liệu sản
xuất quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên việc quản lý, sử
dụng đất đai có hiệu quả nhất luôn là vấn đề mà Chính phủ của các quốc gia quan tâm và
được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.
Khi đất nước ta trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đất đai mới chỉ
được coi trọng về mặt hiện vật, các nguồn lực tài chính từ đất đai chưa được quan tâm
nhiều, việc khai thác sử dụng chưa thực sự có hiệu quả, kết quả thu được cho Nhà nước,
xã hội từ đất đai chưa lớn. Kể từ khi đổi mới, với sự hình thành và phát triển của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đất đai đã thực sự trở thành nguồn lực
tài chính quan trọng của đất nước. Từ đó, vai trò đại diện chủ sở hữu về đất đai của Nhà
nước không những thể hiện qua sự quản lý, khai thác, sử dụng đất đai với tư cách là tư
liệu sản xuất mà còn thể hiện qua việc khai thác, sử dụng các nguồn lực tài chính quan
trọng từ đất đai phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách về đất đai nhằm thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai, điển hình
như Luật Đất đai năm 1993 và các Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001 cùng hệ thống
các văn bản dưới Luật. Những chính sách đó đã góp phần tạo thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế của đất nước ta hơn một thập kỷ qua. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng về
kinh tế - xã hội những năm gần đây, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật đất
đai theo Luật 1993 đã bộc lộ một số hạn chế lớn như: chưa xác định rõ các hình thức thực
hiện lợi ích kinh tế của sở hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường, từ đó gây
ra khó khăn cho việc Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo Luật; việc quản lý, sử
dụng đất đai vẫn còn mang nặng tính bao cấp; sự thiếu hụt các chế định cần thiết về giá
đất, về điều tiết địa tô chênh lệch, về điều tiết lợi nhuận qua chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, về bồi thường thu hồi đất, về đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất;... dẫn tới
tình trạng sử dụng đất đai lãng phí, không hiệu quả; sự yếu kém trong quản lý thị trường
bất động sản; cơ chế xin cho, tiêu cực trong quản lý đất đai không những gây thất thu cho
ngân sách nhà nước mà còn ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư.
94 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2101 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn lực tài chính từ đất đai trong nền kinh tế nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nguồn lực tài chính từ đất đai trong
nền kinh tế nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai luôn là nguồn tài nguyên quý của mọi quốc gia, bởi lẽ đó là tư liệu sản
xuất quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên việc quản lý, sử
dụng đất đai có hiệu quả nhất luôn là vấn đề mà Chính phủ của các quốc gia quan tâm và
được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.
Khi đất nước ta trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đất đai mới chỉ
được coi trọng về mặt hiện vật, các nguồn lực tài chính từ đất đai chưa được quan tâm
nhiều, việc khai thác sử dụng chưa thực sự có hiệu quả, kết quả thu được cho Nhà nước,
xã hội từ đất đai chưa lớn. Kể từ khi đổi mới, với sự hình thành và phát triển của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đất đai đã thực sự trở thành nguồn lực
tài chính quan trọng của đất nước. Từ đó, vai trò đại diện chủ sở hữu về đất đai của Nhà
nước không những thể hiện qua sự quản lý, khai thác, sử dụng đất đai với tư cách là tư
liệu sản xuất mà còn thể hiện qua việc khai thác, sử dụng các nguồn lực tài chính quan
trọng từ đất đai phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách về đất đai nhằm thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai, điển hình
như Luật Đất đai năm 1993 và các Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001 cùng hệ thống
các văn bản dưới Luật. Những chính sách đó đã góp phần tạo thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế của đất nước ta hơn một thập kỷ qua. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng về
kinh tế - xã hội những năm gần đây, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật đất
đai theo Luật 1993 đã bộc lộ một số hạn chế lớn như: chưa xác định rõ các hình thức thực
hiện lợi ích kinh tế của sở hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường, từ đó gây
ra khó khăn cho việc Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo Luật; việc quản lý, sử
dụng đất đai vẫn còn mang nặng tính bao cấp; sự thiếu hụt các chế định cần thiết về giá
đất, về điều tiết địa tô chênh lệch, về điều tiết lợi nhuận qua chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, về bồi thường thu hồi đất, về đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất;... dẫn tới
tình trạng sử dụng đất đai lãng phí, không hiệu quả; sự yếu kém trong quản lý thị trường
bất động sản; cơ chế xin cho, tiêu cực trong quản lý đất đai không những gây thất thu cho
ngân sách nhà nước mà còn ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư.
Để khắc phục những thiếu sót trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX xác định: "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất
đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Ngày 26/11/2003,
tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI đã thông qua Luật
Đất đai năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Luật Đất đai năm 2003 là
cơ sở pháp lý mới để giải quyết các quan hệ về đất đai; vấn đề nguồn lực tài chính từ đất
đai trong Luật đã được đề cập rõ hơn. Tuy vậy, đến nay việc khai thác nguồn lực tài
chính từ đất đai với tư cách là hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế của sở hữu toàn
dân về đất đai, đồng thời đóng vai trò là công cụ điều tiết quản lý đất đai trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN vẫn chưa thực sự được làm sáng tỏ, đòi hỏi phải được
tiếp tục nghiên cứu bổ sung. Vì vậy, "Nguồn lực tài chính từ đất đai trong nền kinh tế
nước ta hiện nay" được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các vấn đề liên quan đến tài chính đất đai như đền bù, hỗ trợ và tái định cư, thuế
và các khoản thu liên quan đến đất là một vấn đề lớn có quan hệ tới hầu hết mọi người
trong xã hội nên luôn được toàn xã hội quan tâm. Tuy nhiên, việc khai thác tài chính từ
đất đai là vấn đề liên quan đến việc xây dựng cơ chế chính sách của các cơ quan, ban
ngành có liên quan nên các công trình đã nghiên cứu chưa được công bố nhiều.
Qua tham khảo, chúng tôi thấy rằng trước đây đã có một số tác giả nghiên cứu
các vấn đề liên quan, nhưng phạm vi nghiên cứu hẹp (thường là một địa phương), hoặc
có những tác giả nghiên cứu sâu vào một nội dung cụ thể của vấn đề như: công tác đền
bù giải phóng mặt bằng, giá đất, thị trường bất động sản,... nhằm tìm ra những giải pháp
giải quyết những bức xúc về kinh tế trước mắt; trên góc độ của chuyên ngành Kinh tế
chính trị thì đến nay chưa có đề tài nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là trên góc độ lý
luận; ngoài ra, đề tài có tính thời sự, vì Luật Đất đai năm 2003 mới có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2004, các văn bản hướng dẫn thi hành đã ban hành nhưng chưa đầy đủ, nhất
là vấn đề tài chính đất đai.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn
của vấn đề nguồn lực tài chính từ đất đai trong điều kiện nước ta hiện nay khi đất đai
thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu; từ đó đề xuất những giải
pháp để việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai có hiệu quả hơn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
+ Làm rõ được cơ sở lý luận, những vấn đề liên quan đến nguồn lực tài chính từ
đất đai trong thời gian qua, trong đó chú trọng đến các quy định tại Luật Đất đai năm
2003 và các văn bản hướng dẫn dưới Luật đã ban hành.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai ở nước ta
trong thời gian qua, đặc biệt từ đổi mới đến nay; đưa ra những đánh giá ưu, nhược điểm
trong việc khai thác các nguồn lực tài chính từ đất đai thời gian qua.
+ Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, trong đó chủ
yếu là các chính sách tài chính liên quan đến khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai
trong điều kiện nước ta hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu về mặt không gian là quan hệ tài chính về đất đai giữa một
bên là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một
bên là các đối tượng sử dụng đất bao gồm: các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; đối tượng phải nộp các loại thuế liên quan đến sử dụng, giao dịch đất
đai; biểu hiện ra bên ngoài của mối quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng
tiền, bằng sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về mặt thời gian, đề tài sẽ
nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn của những vấn đề liên quan đến tài chính đất
đai từ năm 1986 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ nêu ra thực tiễn việc sử dụng đất đai của nước
ta trong thời gian qua; trình bày các quy định về tài chính của Nhà nước đối với đất đai,
phân tích mặt được và chưa được đối với thực tiễn của các quy định này để tìm ra, kiến
nghị sửa đổi bổ sung những vấn đề chưa phù hợp gây thiệt thòi, ảnh hưởng đối với cả hai
bên: Nhà nước và các tổ chức, cá nhân sử dụng đất.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; các quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đất đai; đồng thời, trong
luận văn có sử dụng các phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích, thống kê cùng với
phương pháp khảo sát thực tế để đánh giá làm sáng tỏ vấn đề.
6. Một số kết quả nghiên cứu của luận văn
Nêu ra và bước đầu làm rõ khái niệm nguồn lực tài chính từ đất đai, phân tích so
sánh khái niệm này với khái niệm nguồn lực, nguồn lực tài chính.
Hệ thống hóa các hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai của chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.
Khái quát những đổi mới về cơ chế chính sách khai thác nguồn lực tài chính từ
đất đai và phân tích thực trạng khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai kể từ khi đổi mới,
nêu ra những vướng mắc và vấn đề đặt ra trong khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.
Đề xuất hệ thống quan điểm và giải pháp khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phục lục và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ ĐẤT ĐAI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ ĐẤT ĐAI
1.1.1. Bản chất và đặc điểm của nguồn lực tài chính từ đất đai
"Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng" [18, tr. 1]. Trong nền KTTT,
vai trò đặc biệt quan trọng của đất đai không những thể hiện với tư cách là nguồn lực về
hiện vật, mà còn trở thành nguồn lực tài chính to lớn có thể khai thác để nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh tế của từng chủ thể SXKD có sử dụng đất đai và của toàn xã hội.
1.1.1.1. Khái niệm nguồn lực tài chính từ đất đai
* Nguồn lực là hệ thống những yếu tố tự nhiên, xã hội có ích đối với sự phát triển
của xã hội loài người, thông qua việc khai thác, sử dụng chúng mà con người có thể tạo
ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình.
Tùy theo trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã
hội, các nguồn lực được khai thác nhằm phục vụ cho nhu cầu của con người rất khác
nhau. Do đó, vị trí, vai trò của các nguồn lực là rất khác nhau. Thậm chí, đối với các quốc
gia có trình độ phát triển khác nhau, các nguồn lực cũng phát huy tác dụng không giống
nhau.
Nguồn lực phát triển kinh tế có thể phân theo ngành, theo lĩnh vực,... Theo nhận
thức phổ biến hiện nay, các nguồn lực bao gồm: nguồn lực con người, nguồn lực đất đai,
nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học công nghệ,... hay cách hiểu tương tự là vốn, lao
động, đất đai, tri thức,...
Trong hệ thống các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội kể trên, nguồn lực đất
đai luôn có vị trí rất quan trọng. Vai trò đó còn càng quan trọng hơn đối với các quốc gia
có trình độ phát triển thấp, đặc biệt đối với nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng nông
nghiệp.
* Nguồn lực tài chính là khối lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ được hình thành
trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, phản ánh các mối quan hệ kinh tế - xã
hội trong phân phối nhằm đáp ứng các yêu cầu chi tiêu bằng tiền để thực hiện quá trình
tái sản xuất các mặt hoạt động của các chủ thể trong xã hội.
Như vậy, bản chất của nguồn lực tài chính là phạm trù phân phối; đó là sự phân
phối bằng giá trị chứ không phải bằng hiện vật và thông qua hiện vật.
Nguồn lực tài chính được biểu hiện rất khác nhau, tùy theo nguồn gốc hình thành
mà chủ thể có thể thực hiện để có được các quỹ tiền tệ. Thông qua các nguồn lực tài
chính mà những chủ thể trong xã hội có được hệ thống các quỹ tiền tệ tập trung và không
tập trung vận động độc lập với các chức năng cất trữ hay phương tiện thanh toán. Nguồn
lực tài chính là sự vận động của tiền tệ.
Với cách hiểu như vậy, để hình thành nguồn tài chính hay các quỹ tiền tệ vận
động tập trung, các chủ thể trong xã hội có thể khai thác từ nhiều nguồn lực khác nhau
trong đó có nguồn lực từ đất đai.
Nguồn lực tài chính từ đất đai là nguồn lực tài chính được hình thành từ nguồn
lực đất đai thông qua quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong một xã hội nhất định và chịu
sự chi phối của quan hệ sở hữu của xã hội đó.
Tài chính và nguồn lực tài chính phản ánh mặt quan hệ giữa các chủ thể trong xã
hội cụ thể là biểu hiện của quan hệ phân phối, song vì đó là sự phân phối giá trị cho nên
quan hệ đó chỉ được thực hiện trong nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất
của mặt phân phối và thực hiện giá trị từ các nguồn lực là trong nền kinh tế hàng hóa phát
triển ở trình độ cao hay KTTT. Vì KTTT mới có khả năng biến mọi nguồn lực trở thành
hàng hóa và biến các hàng hóa đó trở thành những biểu hiện của giá trị, mặc dù có thể
chúng không phải do lao động làm ra.
Với ý nghĩa như vậy, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ có thể được hình thành và
phát triển trong nền KTTT, khi mà các quan hệ đất đai được thị trường hóa. Tức là chúng
có thể được mua bán và trao đổi trên thị trường.
1.1.1.2. Bản chất của nguồn lực tài chính từ đất đai
Về mặt nguyên lý, những gì không phải là sản phẩm của sự hao phí lao động trừu
tượng của con người tạo ra thì chúng không có giá trị. Tuy nhiên, chúng lại có thể là
phương tiện để thực hiện lợi ích của các chủ thể sở hữu chúng. Với tư cách là phương
tiện để thực hiện lợi ích trong nền KTTT thì chúng có vai trò trong việc hình thành các
quỹ tiền tệ tập trung và vì thế chúng góp phần hình thành các nguồn lực tài chính. Đất đai
là một trong những yếu tố có đặc trưng như vậy.
Bản thân đất đai không là sản phẩm của lao động, vì thế theo cách hiểu thông
thường chúng không có giá trị; tuy nhiên, đất đai lại là nguồn lực mang tư cách là điều
kiện quan trọng tham gia vào các quá trình tạo ra của cải cho xã hội. Đất đai không là
nguồn gốc tạo ra giá trị nhưng đất đai là điều kiện tạo ra của cải; khi khoác áo là điều
kiện cho quá trình tạo ra của cải thì người ta có thể thực hiện được lợi ích từ chúng miễn
là phải làm thế nào để sở hữu chúng mà thôi. Từ việc sở hữu đất đai, các chủ thể có thể
đem đất đai ra để trao đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng như những yếu tố sản xuất
khác; thông qua sự trao đổi và chuyển quyền sử dụng đó, chủ thể thực hiện được lợi ích
của họ. Hay đất đai là điều kiện để các chủ thể sở hữu thực hiện được nguồn thu nhập
dưới dạng hình thái tiền, các nguồn tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ đó là những
nguồn lực tài chính từ đất đai.
Về bản chất, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh quan hệ phân phối giá trị
để hình thành các quỹ tiền tệ thông qua quan hệ giữa các chủ thể về đất đai.
Đó là quan hệ phái sinh được hình thành trên cơ sở thực hiện lợi ích kinh tế từ
quyền sở hữu đất đai, mà việc thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất như Mác đã phân tích
thể hiện trước mắt thông qua các hình thức địa tô, nhưng với tư cách là hình thái biểu
hiện của quan hệ tài chính thì địa tô đó phải là địa tô dưới hình thái tiền, không phải là tô
hiện vật hay tô lao dịch.
Vì phản ánh mặt quan hệ phân phối nên nguồn lực tài chính mang tính lịch sử,
nghĩa là xét về mặt hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế từ quan hệ đất đai sẽ do
quan hệ sở hữu của chế độ xã hội đó quyết định. Trong mỗi chế độ xã hội với kiến trúc
thượng tầng khác nhau sẽ quy định chế độ sở hữu đặc trưng của xã hội đó.
Nếu đất đai thuộc quyền sở hữu của nhân dân và nhà nước của dân, do dân đứng
ra làm đại diện chủ sở hữu thì nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ hình thành và thực hiện
trên cơ sở chế độ sở hữu tương ứng. Từ đó, quy định cách thức sử dụng các quỹ tiền tệ
tập trung hình thành từ nguồn lực đất đai, trái lại, nếu đất đai thuộc về sở hữu tư nhân thì
mục đích sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai chắc chắn không phải phục vụ cho số
đông mà là chỉ là một bộ phận trong xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nguồn lực tài chính từ đất
đai phản ánh tính chất quá độ của quan hệ sản xuất của nước ta.
Quan hệ đất đai tập trung nhất trong quan hệ sở hữu và những quan hệ tổ chức
quản lý, phân phối phát sinh từ quyền sở hữu đó.
Tùy thuộc vào từng nước, đất đai có thể thuộc sở hữu riêng của từng thành viên
hoặc từng nhóm thành viên và có thể là sở hữu chung của tất cả các thành viên trong
cộng đồng quốc gia hoặc hỗn hợp cả hai loại hình sở hữu trên. Ở hầu hết các nước tư bản,
đất đai thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn
dân.
1.1.1.3. Đặc điểm của nguồn lực tài chính từ đất đai
Không giống với các nguồn lực tài chính khác, nguồn lực tài chính từ đất đai có
những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, nguồn lực tài chính từ đất đai luôn gắn với quan hệ sở hữu đất đai.
Như trên đã chỉ ra, muốn đất đai đem lại lợi ích dưới hình thái tiền tệ thì trước
hết các chủ thể phải nắm quyền sở hữu đất đai. Việc sở hữu đó sẽ là tiền để sinh ra các
quyền năng khác, giúp cho chủ thể sở hữu thực hiện được lợi ích của mình. Quyền sở
hữu là điều kiện cần để thực hiện được lợi ích hay khai thác nguồn lực tài chính từ đất
đai.
Khi quan hệ sở hữu được xác lập đối với đối tượng là đất đai, các chủ thể sở hữu
mới có cơ sở để thực hiện lợi ích của mình, thông thường quan hệ sở hữu đó phải được
thể chế hóa thành chế độ sở hữu về đất đai.
Cơ sở thực hiện các nguồn lực tài chính từ đất đai là các hình thái địa tô. Trong
chủ nghĩa tư bản, địa tô là hình thức thực hiện lợi ích kinh tế của chế độ sở hữu tư nhân
về đất đai của phương thức sản xuất đó.
Thứ hai, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ hình thành và được thực hiện trong cơ
chế kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, ở đó trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, nên
phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa chưa sâu sắc, do đó các quan hệ giá trị
chưa trở thành phổ biến; việc trao đổi giữa các thành viên trong xã hội chủ yếu để thỏa
mãn nhu cầu giá trị sử dụng, hình thức thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất đai của các
chủ thể thường gắn với hiện vật hơn là giá trị. Trong khi đó, nguồn lực tài chính từ đất
đai lại biểu hiện dưới hình thái của giá trị, hay dưới dạng tiền tệ; hơn thế, nguồn lực đó
phải không ngừng vận động độc lập tương đối với các chức năng cất trữ và phương tiện
thanh toán của tiền tệ. Để có thể thực hiện được điều đó, cần một cơ chế kinh tế mà trong
đó mọi yếu tố đều có thể chuyển hóa thành hàng hóa bất luận chúng có phải do hao phí
lao động làm ra hay không. Cơ chế KTTT đáp ứng được yêu cầu đó, KTTT là biểu hiện
của trình độ văn minh nhân loại và cũng là môi trường để tạo khả năng hình thành các
nguồn tiền tệ cho các chủ thể trong xã hội.
1.1.2. Các hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai
Về mặt lý thuyết, có nhiều hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai,
trong đó phổ biến nhất là thông qua khai thác địa tô. Từ mức địa tô, người ta có thể xác
định được giá cả ruộng đất. Từ địa tô và giá cả ruộng đất các chủ thể sẽ thực hiện được
những quỹ tiền tệ hay các nguồn lực tài chính phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của mình.
Trong lý luận của Mác, có các hình thức địa tô cơ bản như: địa tô chênh lệch
(biểu hiện bao gồm chênh lệch I và chênh lệch II), địa tô tuyệt đối, các hình thức địa tô
khác như: địa tô hầm mỏ, địa tô đất xây dựng,.. Cơ sở để các chủ thể thực hiện được địa
tô là quyền sở hữu về đất đai. Trong chủ nghĩa tư bản, độc quyền sở hữu tư nhân về đất
đai là điều kiện để chủ thể sở hữu thu được địa tô tuyệt đối.
Xác định giá cả ruộng đất thông thường được căn cứ vào mức địa tô và tỷ suất lợi
tức nhận gửi của ngân hàng, mối quan hệ đó được thể hiện qua công thức sau đây:
Giá cả ruộng đất =
Mức địa tô
Tỷ suất lợi tức nhận gửi của ngân hàng
Trong đó, giá cả ruộng đất được xem như là giá bán đất (trong các nước tư bản),
còn mức địa tô tương đương với giá thuê đất.
Tùy theo đặc điểm chế độ sở hữu khác nhau, điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau
mà có các hình thức khai thác các nguồn lực tài chính khác nhau. Đối với Việt Nam, đất
đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, cho nên việc thực hiện khai thác
nguồn lực tài chính từ đất đai trên thực tế là quan hệ giữa một bên là Nhà nước còn lại là
các chủ thể khác trong xã hội.
Cơ sở lý luận của việc thực hiện các hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ
đất đai là chủ sở hữu phải thực hiện được lợi ích của mình từ đất
đai; thông qua quan hệ đất đai mà củng cố địa vị thống trị của giai cấp nắm chính quyền.
Ở nước ta, từ Hiến pháp năm 1980 (Điều 19, Điều 20) và đặc biệt là đến Hiến pháp
năm 1992, tại Điều 17 đã khẳng định rõ về sở hữu đất đai ở nước ta: "Đất đai, rừng núi,
sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển