Đề tài Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh
http://timtailieu.vn/tai-lieu/preview-8954/
Type: pdf
-----------------------------------------------------------------------------------
104 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1889 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tại tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động kinh doanh của NHNo&PTNT
Quảng Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) trên địa
bàn Quảng Nam đã không ngừng đổi mới cả về chất và lượng, góp phần vào sự nghiệp đổi
mới hệ thống ngân hàng nói riêng và sự nghiệp đổi mới của đất nước nói chung. Tuy nhiên,
thực tế hoạt động của các NHTM trên địa bàn Quảng Nam cũng bộc lộ nhiều yếu kém, chưa
đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, hiệu quả kinh doanh chưa cao, rủi ro và tiềm ẩn rủi
ro lớn, năng lực quản trị kinh doanh còn nhiều hạn chế. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay, thị trường tài chính ngày càng sôi động và biến đổi khó lường, sự cạnh tranh
giữa các NHTM trong nước và các ngân hàng nước ngoài càng trở nên quyết liệt hơn. Vì
vậy, nâng cao năng lực quản trị kinh doanh, mà đặc biệt là năng lực quản lý rủi ro, là đòi hỏi
bức thiết của các NHTM hiện nay.
Với cơ cấu thu nhập chiếm 95% trong tổng thu nhập của Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Quảng Nam, hoạt động tín dụng có vai trò
đặc biệt quan trọng trong chiến lược kinh doanh, đồng thời cũng là hoạt động mang lại rủi
ro cao nhất của Chi nhánh. Mặc dù trong những năm gần đây, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng
(RRTD) đã nhận được sự quan tâm của Ban Giám đốc, đội ngũ cán bộ làm công tác tín
dụng, nhưng trên thực tế, công tác này vẫn còn nhiều thiếu sót, yếu kém, đặt ra yêu cầu: nếu
không nghiên cứu, tìm cách khắc phục thì sẽ có ảnh hưởng xấu đến hoạt động và kết quả
kinh doanh của Chi nhánh. Chính vì thế, đề tài “Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
kinh doanh của NHNo&PTNT Quảng Nam” được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu
trong luận văn này..
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý RRTD không chỉ là điều kiện để NHTM hoạt động ổn định và phát triển, mà
còn để ngăn ngừa những tác động xấu đến nền kinh tế. Vì vậy đã có nhiều nhà khoa học,
nhà quản lý kinh tế trên thế giới quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Các nghiên cứu của họ
thường thiên về khía cạnh nhận dạng rủi ro, các kỹ thuật định lượng rủi ro và các giải pháp
phòng ngừa rủi ro... Các kết quả nghiên cứu này đã được công bố trên một số công trình
như:
Dominic Casserley, Đối mặt với rủi ro, Thông tin phòng ngừa rủi ro Ngân hàng Công
thương Việt Nam
Peter S. Rose, Quản trị Ngân hàng thương mại, 2002, NXB Tài chính, Hà Nội
Eddua W. Read, Ph.D và Eddua K.Gill, Ph.D, Ngân hàng thương mại, 2004, NXB
Thống kê, TP Hồ Chí Minh
Tại Việt Nam, khi chuyển sang cơ chế thị trường, các NHTM đứng trước những khó
khăn do sự khác biệt trong hoạt động giữa cơ chế cũ và cơ chế mới mang lại, trong đó có
vấn đề quản lý rủi ro. Để khắc phục khó khăn, vươn lên làm ăn có hiệu quả, giới lý luận và
quản lý ngân hàng bắt đầu quan tâm phân tích, đánh giá và đề xuất các giải pháp ngăn ngừa,
hạn chế RRTD của các NHTM Việt Nam. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã xuất hiện
một số công trình nghiên cứu sâu về hoạt động tín dụng, quản lý RRTD đăng trên các tạp
chí như:
TS. Trần Huy Hoàng, Hạn chế nguy cơ rủi ro hoạt động tín dụng của các NHTM Việt
Nam, Phát triển kinh tế, tháng 12 năm 2004.
PGS.TS Nguyễn Đình Tự, Tiếp cận để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của Ngân
hàng thương mại, Tạp chí Ngân hàng, Số chuyên đề năm 2005.
ThS. Nguyễn Hữu Đương, Đẩy mạnh hoạt động thông tin tín dụng nhằm nâng cao
chất lượng quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng,
tháng 2-2005.
Năm 2005, Lê Đăng Trung đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh với đề tài “Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh".
Quảng Nam là một tỉnh thuần nông, hoạt động kinh doanh của các NHTM trên địa bàn
nông nghiệp, nông thôn có những đặc điểm rất khác biệt với đô thị lớn như Thành phố Hồ
Chí Minh. Hơn nữa, việc đi sâu nghiên cứu hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
của NHNo&PTNT Quảng Nam, cho đến nay chưa có một bài viết, một công trình nào được
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý RRTD
trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay và đề xuất
phương hướng hoàn thiện trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của quản lý RRTD.
- Phân tích thực trạng quản lý RRTD, phương pháp đánh giá, đo lường RRTD trong
hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Quảng Nam.
- Đề xuất giải pháp tăng cường quản lý để ngăn ngừa, hạn chế RRTD và thu hồi các
khoản tín dụng đã xử lý rủi ro của NHNo&PTNT Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu trong luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý rủi ro tín dụng trong kinh
doanh của NHNo&PTNT Quảng Nam từ 2001 đến 2005 và trong 5 năm sắp tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu trong luận văn
Những lý giải và kết luận trong luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp điều tra, phân tích, so
sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp mô hình... Đồng thời luận văn cũng kế thừa các
công trình khoa học đã được công bố để phân tích, làm rõ những vấn đề liên quan đến đề
tài.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá có bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về RRTD và quản lý RRTD
trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam.
- Khái quát thực trạng RRTD, quản lý RRTD của NHNo&PTNT Quảng Nam trong
giai đoạn 2001- 2005.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp với NHNo&PTNT Quảng Nam nhằm hạn chế RRTD
trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được trình bày trong 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Những vấn đề chung về quản lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.1. Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
Về mặt lịch sử, NHTM đã có quá trình hình thành và phát triển lâu dài gắn liền với
quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Từ các hoạt động cho vay tư nhân và
cầm đồ xuất hiện trong thời kỳ cổ đại, các ngân hàng đã phát triển về quy mô, mở rộng về
chức năng qua thời kỳ trung cổ và đạt tới sự phát triển rực rỡ trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Đến thế kỷ thứ 18, với sự can thiệp của nhà nước, ngân hàng phát hành được tách
riêng ra để trở thành ngân hàng trung ương của các nước, các ngân hàng còn lại không được
phép phát hành tiền, có chức năng chuyên kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây
chính là tiền thân của các NHTM hiện đại.
Ngày nay, nhất là trong các nền kinh tế thị trường (KTTT) phát triển, NHTM đã trở
thành các trung tâm tiền tệ, là cầu nối giữa người có vốn nhàn rỗi và người có nhu cầu sử
dụng vốn, đồng thời là tổ chức cung cấp các dịch vụ ngân hàng như chiết khấu thương
phiếu, bảo quản tài sản, đồ vật quý, thanh toán cho khách hàng, tư vấn... Trong nền KTTT
hiện đại, NHTM đã phát triển thành hệ thống nhiều chi nhánh, có vai trò rất quan trọng trên
thị trường tài chính và ảnh hưởng lớn đến trạng thái kinh tế vĩ mô của quốc gia, quốc tế.
Về mặt lý luận, có nhiều cách định nghĩa NHTM khác nhau. Nhà kinh tế học Peter S.
Rose định nghĩa NHTM như sau: " Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ
thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế" [27, tr.7]. Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng, NHTM là
"tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách
hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và thanh toán" [33, tr.73].
Dù định nghĩa theo cách nào thì NHTM cũng lấy việc huy động tiền gửi để cho vay là
hoạt động kinh doanh chủ yếu. NHTM vừa là người cung cấp vốn vừa là người tiêu thụ vốn
của khách hàng. Trong chức năng này, đối tượng kinh doanh của NHTM là tiền tệ, một loại
hàng hoá đặc biệt. Với chức năng này, NHTM đã góp phần quan trọng vào việc điều hoà
lưu thông tiền tệ, làm cho các nguồn vốn trong xã hội được sử dụng có hiệu quả, đồng thời,
qua đó tìm kiếm lợi nhuận cho mình.
NHTM có vai trò to lớn trong nền kinh tế hiện đại. Hệ thống NHTM được ví như
mạch máu, chất dầu bôi trơn của quá trình tái sản xuất xã hội, là trợ thủ đắc lực của Nhà
nước và các chủ thể kinh tế.
1.1.2. Tín dụng ngân hàng
1.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Về mặt ngữ nghĩa, thuật ngữ tín dụng có nguồn gốc từ chữ la tinh "creditum", với
nghĩa tin tưởng, tín nhiệm. Theo cách phát triển ngữ nghĩa này, tín dụng chính là quan hệ
vay mượn dựa trên cơ sở tin rằng, người vay sẽ hoàn trả số vốn đó cho người cho vay trong
tương lai.
C.Mác cho rằng: Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu đến người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi lại một lượng giá trị
lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo chúng tôi, tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định với điều
kiện bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thuận. Về mặt nguyên tắc, tín
dụng có thể được thực hiện giữa hai chủ thể bất kỳ trong nền kinh tế. Có nhiều loại tín dụng
như:
- Tín dụng thương mại: là loại tín dụng do người bán hàng cung cấp cho người mua
hàng, lãi suất ẩn trong giá hàng hoá tăng thêm so với giá hàng hoá trả tiền ngay.
- Tín dụng do cá nhân trao cho tổ chức và cá nhân khác như cá nhân mua trái phiếu, cá
nhân cho vay tiền trên thị trường phi chính thức.
- Tín dụng do các trung gian tài chính cung cấp: ngoài NHTM, còn có các trung gian
tài chính khác cung cấp tín dụng như công ty tài chính, các loại quỹ đầu tư, quỹ của chính
phủ.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các tổ chức kinh tế và cá
nhân. Xét theo nghĩa rộng, tín dụng ngân hàng bao gồm cả việc khách hàng cho ngân hàng
vay và ngân hàng cho khách hàng vay. Xét theo nghĩa hẹp, tức theo thuật ngữ chuyên môn
của ngân hàng, thì khâu khách cho ngân hàng vay được gọi là huy động vốn, còn khâu ngân
hàng cho khách hàng của mình vay được gọi là tín dụng. Luận văn tiếp cận tín dụng ngân
hàng theo nghĩa hẹp, nghĩa là là chỉ bao hàm hoạt động cho vay của NHTM.
Dù hiểu theo nghĩa hẹp, thì cũng giống như mọi quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân
hàng bao hàm các nội dung sau:
- Là hoạt động chuyển giao một lượng giá trị được quy ra tiền từ chủ thể cho vay sang
chủ thể đi vay dựa trên độ tín nhiệm nhất định của người đi vay. Sự tín nhiệm là một trong
những cơ sở quan trọng hàng đầu để cho vay. Nếu mức tín nhiệm thấp thì người vay, một là,
phải thế chấp; hai là, phải chịu lãi suất cao.
- Người đi vay phải hoàn trả vốn và lãi cho người cho vay khi hết hạn hợp đồng tín
dụng. Nếu người đi vay, do một lý do nào đó, không có khả năng hoàn trả tiền vốn và lãi cho
người cho vay thì người cho vay có thể mất cả vốn lẫn lãi. Nói cách khác, tín dụng tiềm ẩn rủi
ro mất vốn từ phía người vay rất lớn.
- Tín dụng thực chất là nhượng quyền sử dụng tiền trong một thời hạn nhất định từ
người cho vay sang cho người đi vay nên lãi suất theo thời gian chính là giá thị trường của
quyền sử dụng vốn.
1.1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
a. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
* Tín dụng ngân hàng có vai trò to lớn trong tập trung, tích tụ vốn cung cấp cho nền
kinh tế. Với vai trò trung gian tài chính trên thị trường, NHTM giúp tập trung các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế. Như một cái hồ lớn, ngân hàng tập
trung và tích tụ các nguồn vốn nhỏ bé của từng chủ thể thành các khoản vốn to lớn tài trợ
cho các khoản đầu tư và tiêu dùng của các doanh nghiệp, nhà nước và người tiêu dùng. Trên
giác độ cung cấp vốn lớn cho doanh nghiệp, tín dụng tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển
của đất nước. Bởi vì, một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn lưu động và
vốn cố định cho các doanh nghiệp là vốn tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay, nếu
chỉ dựa vào vốn tự có thì các doanh nghiệp có số vốn quá ít ỏi, làm cho doanh nghiệp không
đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng cũng là
nguồn vốn tài trợ quan trọng cho các dự án kinh doanh mới của doanh nghiệp.
* Tín dụng ngân hàng thực hiện việc điều hoà dòng lưu chuyển tiền tệ và lưu chuyển
tài chính trong xã hội. Với chức năng cầu nối giữa người có vốn nhàn rỗi và người có nhu
cầu sử dụng vốn, tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông
hàng hoá, tiêu dùng. Nhờ có tín dụng ngân hàng, nguồn vốn xã hội được sử dụng hiệu quả
hơn, chi phí sử dụng tiền giảm thấp, từ đó tăng năng lực sản xuất của xã hội, tạo điều kiện
tăng việc làm và thu nhập cho dân cư.
* Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng, ứng dụng
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản
phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Ngân hàng, với chức năng cho doanh nghiệp
vay vốn, đã giúp cho các dự án đổi mới công nghệ, các dự án tạo sản phẩm mới, dự án mở
rộng sản xuất, dự án nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp trở thành hiện thực. Trên
giác độ đó, tín dụng ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các nhà sản
xuất kinh doanh thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng và ứng dụng công nghệ để cạnh
tranh thắng lợi trên thị trường.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế
trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp, các công ty làm ăn có hiệu quả và uy tín được
ngân hàng tập trung đầu tư vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ. Tín
dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn, tạo cho các
doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nước ngoài, đưa nền
kinh tế nước ta hội nhập nền kinh tế thế giới.
* Hoạt động tín dụng lành mạnh, chính sách tín dụng của các NHTM đúng đắn sẽ góp
phần kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
bền vững. Ngoài ra, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát
các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp, chính sách quản
lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Chẳng hạn như, Nhà nước có thể điều chỉnh cơ cấu kinh tế và
hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về lãi suất, về các điều kiện
cho vay an toàn, về bảo hiểm.
b. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với ngân hàng thương mại
* Tín dụng ngân hàng là hoạt động cơ bản, là nguồn thu lợi chủ yếu của NHTM.
Chức năng khởi đầu và truyền thống của NHTM là tín dụng. Mặc dù NHTM hiện đại đã mở
mang nhiều dịch vụ ngân hàng ngoài tín dụng, nhưng cho đến nay, nghiệp vụ huy động vốn
và cho vay vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu và lợi nhuận ngân hàng. Bất kỳ sự trục
trặc nào trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng tác động tiêu cực, không chỉ đến hoạt
động tín dụng, mà đến tất cả các hoạt động khác của ngân hàng. Đối với các nước kém phát
triển như nước ta, các NHTM đa phần lấy tín dụng ngân hàng làm hoạt động chính.
* Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các dịch vụ ngân hàng khác. Một mặt,
các dịch vụ ngân hàng khác được phát triển trên chính các chủ thể có quan hệ tín dụng với
ngân hàng. Mặt khác, hoạt động tín dụng ngân hàng, nếu suôn sẻ, cung cấp nguồn tài trợ
cho các hoạt động khác thông qua nguồn vốn thu hút được, cũng như thông qua lợi nhuận
đầu tư cho cơ sở hạ tầng dịch vụ. Nếu hoạt động tín dụng không tốt, khách hàng sẽ ngần
ngại khi sử dụng dịch vụ tại ngân hàng. Bởi vì, bản thân các dịch vụ ngân hàng thường liên
quan đến nhau, nhất là liên quan đến tín dụng.
* Tín dụng ngân hàng giúp NHTM thực thi các hoạt động kiểm soát hỗ trợ cho các
khoản đầu tư trực tiếp của ngân hàng vào doanh nghiệp. Trong thực tế, nhiều ngân hàng đã
chuyển các khoản vay thành đầu tư khi muốn kiểm soát doanh nghiệp. Các dữ liệu ngân
hàng thu thập về doanh nghiệp giúp ngân hàng có thể ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Nói tóm lại, tín dụng có vai trò to lớn đối với NHTM. Không có hoạt động tín dụng,
thì cũng không có NHTM.
1.1.3. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro là phạm trù được sử dụng phổ biến trong KTTT. Theo nhà kinh tế Mỹ Fran
Knight thì rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Nhà kinh tế Anh Marilic Hurt Mrearty
cho rằng, rủi ro là một tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định
được. Tuy diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhưng các nhà kinh tế đều thống nhất ở điểm
cho rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn của chủ thể kinh doanh và đem lại hậu quả xấu.
Vì thế, trong khoa học kinh tế những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về rủi
ro và cách phòng ngừa tác hại của rủi ro. Khi nghiên cứu rủi ro, các nhà kinh tế thường chú
ý đến hai tiêu chí định lượng rủi ro quan trọng, đó là biên độ tác hại của rủi ro và tần số xuất
hiện rủi ro.
Rủi ro xuất hiện trong mọi hoạt động kinh doanh. Ví dụ, nhà đầu tư gặp rủi ro giảm
giá hàng tồn kho; nông dân gặp rủi ro thiên tai, dịch bệnh; viện nghiên cứu gặp rủi ro nghiên
cứu không thành công...Trên thực tế người ta không thể triệt tiêu rủi ro mà chỉ có thể phòng
ngừa và kiểm soát rủi ro.
Bản thân hoạt động ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều loại rủi ro khác nhau trong các
nghiệp vụ khác nhau như rủi ro trong khâu huy động vốn, rủi ro thanh toán, rủi ro đầu tư, rủi
ro trong khâu cho vay, rủi ro tỷ giá hối đoái,...Luận văn chỉ tập trung phân tích RRTD.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất khi ngân hàng
cho khách hàng vay.
1.1.3.2. Các loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại RRTD khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận và tiêu chí phân loại
khác nhau. Phù hợp với cách phân loại của NHNo&PTNT Việt Nam, luận văn đưa ra cách
phân loại dựa vào tính chất của RRTD như sau:
* Rủi ro khê đọng vốn: là loại rủi ro liên quan đến tình trạng nợ quá hạn của khách
hàng do họ gặp khó khăn tạm thời. Về cơ bản, khoản nợ này có thể thu hồi được, nhưng
phải để cho khách hàng có thời gian xử lý các vấn đề của mình nhằm thoát khỏi tình trạng
khó khăn tạm thời về tài chính. Rủi ro loại này không làm cho ngân hàng mất vốn, nhưng
ngân hàng do bị ứ đọng vốn ở một khách hàng, nên có thể gặp khó khăn trong thanh toán
theo kế hoạch cho khách hàng khác hoặc buộc ngân hàng phải tăng chi phí thu hồi vốn và
lãi.
* Rủi ro nợ không được hoàn trả: Đây là loại rủi ro nguy hiểm nhất vì nó đe doạ sự
bảo toàn tài sản của ngân hàng trong kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân làm cho khách
hàng không trả được nợ cho ngân hàng như khách hàng làm ăn thua lỗ, thậm chí phá sản;
khách hàng bị lừa đảo hoặc khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng; nguyên nhân từ phía
khách quan như khách hàng có biến động về tổ chức và nhân sự, thiên tai, khủng hoảng....
* Rủi ro vốn bị ứ đọng: tức là rủi ro gây ra do NHTM huy động vốn nhưng không cho
vay được, gây nên tình trạng ứ đọng vốn, hay còn gọi là để vốn “chết”. Như chúng ta đã
biết, vốn hoạt động của ngân hàng chủ yếu là vốn huy động từ xã hội. Khi vay tiền, NHTM
phải trả lãi cho người vay hay còn gọi là chi phí lãi suất tiền gửi. Nếu vốn do NHTM huy
động mà không cho vay được, tức đồng vốn không sinh lời, trong khi đó vẫn phải trả lãi cho
ngư