Đề tài Nho giáo Việt Nam nhìn từ thế kỷ XXI

Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thế kỉ VI trước công nguyên, nhưng ảnh hưởng của nó không những chỉ ở Trung Quốc mà còn lan rộng sang nhiều nước phương Đông khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…hình thành khu vực văn hóa mà người ta thường gọi là “khu vực văn hóa Nho giáo”. Vậy Nho giáo vào Việt Nam như thế nào, từ lúc nào, sớm hơn, cùng thời hay muộn hơn những nước khác như Triều Tiên, Nhật Bản? Dựa vào tiêu chí gì để xác định thời điểm Nho giáo vào Việt Nam? Thường có ba tiêu chí, đó là: kinh điển Nho giáo, Nho sĩ và những di tích hoặc hoạt động thuộc về Nho giáo như miếu mạo, tranh tượng, trường học, chế sách…. Sách Lịch sử Việt Nam chép: “Đến đầu công nguyên, triều đình phương Bắc có biến loạn, Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, lập triều đại Tân (8-23). Đông Hán lại thay thế triều Tân. Trong thời gian đó, bọn quan lại nhà Hán ở Giao Chỉ âm mưu cát cứ, nhưng sau lại nhanh chóng quy phục triều Đông Hán. Từ đấy ách thống trị của nước ngoài – với những viên quan Tích Quang, thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên, thái thú Cửu Chân..đã trở nên rất hà khắc. Điều đó biểu hiện trên hai mặt: lối bóc lột và mức độ đồng hóa….Trong chính sách đồng hóa, chúng bắt nhân dân ta phải tuân theo “lễ giáo” phong kiến Hán, từ cách ăn mặc đến việc lấy vợ lấy chồng. Chúng mở một vài trường. Sách Lịch sử Việt Nam chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, cho nên niên đại, sự kiện chẳng có gì khác nhau, khác nhau là ở nhận1 xét, đánh giá sự kiện, một bên thiên về vạch trần thủ đoạn nô dịch của kẻ xâm lược, một bên thiên về ghi nhận công lao “khai hóa” của nhà cầm quyền. Về vấn đề này sách Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau: “Tích Quang là người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ lấy lễ nghĩa dạy dân. Sau nhà Hán lại lấy Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển huyện…Diên coi việc 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong hóa văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ thái thú ấy”2. Mục đích của xâm lược là nô dịch, khai hóa là thủ đoạn, cho nên xâm lược và nô dịch là hai anh em song sinh. Tuy nhiên không phải kẻ xâm lược nào cũng biết phát huy thủ đoạn khai hóa. Khai hóa để nhằm nô dịch tốt hơn, nhưng dẫu sao vẫn còn dễ “chấp nhận” hơn đối với ai bị nô dịch mà không hề biết gì đến khai hóa. Các sử gia hoàn toàn còn đủ tỉnh táo để phân biệt điều đó. Cho nên không tìm được, dẫu cho là một chữ, ghi nhận cái gọi là khai hóa đối với những quan lại như Tô Định, Mã Viện trong Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục…..

docx30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1948 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nho giáo Việt Nam nhìn từ thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHO GIÁO VIỆT NAM NHÌN TỪ THẾ KỶ XXI Hà Thúc Minh Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thế kỉ VI trước công nguyên, nhưng ảnh hưởng của nó không những chỉ ở Trung Quốc mà còn lan rộng sang nhiều nước phương Đông khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…hình thành khu vực văn hóa mà người ta thường gọi là “khu vực văn hóa Nho giáo”. Vậy Nho giáo vào Việt Nam như thế nào, từ lúc nào, sớm hơn, cùng thời hay muộn hơn những nước khác như Triều Tiên, Nhật Bản? Dựa vào tiêu chí gì để xác định thời điểm Nho giáo vào Việt Nam? Thường có ba tiêu chí, đó là: kinh điển Nho giáo, Nho sĩ và những di tích hoặc hoạt động thuộc về Nho giáo như miếu mạo, tranh tượng, trường học, chế sách…. Sách Lịch sử Việt Nam chép: “Đến đầu công nguyên, triều đình phương Bắc có biến loạn, Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, lập triều đại Tân (8-23). Đông Hán lại thay thế triều Tân. Trong thời gian đó, bọn quan lại nhà Hán ở Giao Chỉ âm mưu cát cứ, nhưng sau lại nhanh chóng quy phục triều Đông Hán. Từ đấy ách thống trị của nước ngoài – với những viên quan Tích Quang, thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên, thái thú Cửu Chân..đã trở nên rất hà khắc. Điều đó biểu hiện trên hai mặt: lối bóc lột và mức độ đồng hóa….Trong chính sách đồng hóa, chúng bắt nhân dân ta phải tuân theo “lễ giáo” phong kiến Hán, từ cách ăn mặc đến việc lấy vợ lấy chồng. Chúng mở một vài trường. Sách Lịch sử Việt Nam chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, cho nên niên đại, sự kiện chẳng có gì khác nhau, khác nhau là ở nhận1 xét, đánh giá sự kiện, một bên thiên về vạch trần thủ đoạn nô dịch của kẻ xâm lược, một bên thiên về ghi nhận công lao “khai hóa” của nhà cầm quyền. Về vấn đề này sách Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau: “Tích Quang là người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ lấy lễ nghĩa dạy dân. Sau nhà Hán lại lấy Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển huyện…Diên coi việc 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong hóa văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ thái thú ấy”2. Mục đích của xâm lược là nô dịch, khai hóa là thủ đoạn, cho nên xâm lược và nô dịch là hai anh em song sinh. Tuy nhiên không phải kẻ xâm lược nào cũng biết phát huy thủ đoạn khai hóa. Khai hóa để nhằm nô dịch tốt hơn, nhưng dẫu sao vẫn còn dễ “chấp nhận” hơn đối với ai bị nô dịch mà không hề biết gì đến khai hóa. Các sử gia hoàn toàn còn đủ tỉnh táo để phân biệt điều đó. Cho nên không tìm được, dẫu cho là một chữ, ghi nhận cái gọi là khai hóa đối với những quan lại như Tô Định, Mã Viện trong Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục….. Cái gì cũng có mức độ của nó. Vấn đề là ghi nhận của các sử gia đối với các quan lại có bị chao đảo giữa hai cực hay không. Tác giả bài viết không dám và cũng không phải lúc để bình công luận tội ai đó ở đây, mà chỉ xin đề cập những gì liên quan đến việc truyền bá Nho giáo vào nước ta mà thôi. Về Nhâm Diên và Tích Quang, Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét rằng “phong hóa văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấ”. Bản chữ Hán ghi là: “Lĩnh Nam văn phong thủy nhị thái thú yên” [……………] Sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép: “phong tục Hoa hạ lan tràn trên đất Lĩnh Nam là bắt đầu từ đời hai thái thú ấy”. Hà Thành Hiên trong Lịch sử truyền bá Nho học phương Nam3 nâng lên thành đề mục của một chương: “Hoa phong của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú” (Lĩnh Nam Hoa phong thủy ư nhị thú). Ông triển khai “Hoa phong” đó thành 4 biểu hiện như sau: giáo hóa về canh tác nông nghiệp, về phục trang, về hon thú và đặc biệt về truyền bá Nho giáo, Nho giáo bao giờ cũng đặt “giáo hóa lễ nghĩa” ở hàng đầu của chính sách quản lý xã hội. Cho nên việc “xây dựng trường học, giáo hóa lễ nghĩa” là sự hiện diện rõ nét nhất của Nho giáo. Hơn nữa, “hai thái thú Tích Quang, Nhâm Diên biết sử dụng sức mạnh hành chính một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch để thúc đẩy giáo hóa lễ nghĩa, chính thức xây dựng trường học, truyền bá kinh điển Nho giáo. Như vậy là có sự đỡ đầu của Nhà nước, có kinh phí mở lớp học, có nơi chốn để dạy học, có thày giáo chuyên nghiệp, những việc đó đã tạo điều kiện cho con em dân tộc Lạc Việt học hành thuận lợi, mang lại hiệu quả rõ rệt”4 Nếu bỏ qua không cần quan tâm nhiều đến cái gọi là công lao “khai hóa” nhiều ít của Nhâm Diên, Tích Quang, thì có thể thừa nhận rằng Nho giáo đã truyền bá vào Việt Nam từ đầu công nguyên. Tuy nhiên, cột mốc để đánh dấu thời điểm truyền bá Nho giáo vào Việt Nam vẫn có thể kéo lùi về quá khứ cho đến thế kỉ II trước công nguyên. Từ Thiên Sĩ trong Lịch sử nước Việt Nam xưa (Cổ Nam Việt quốc sử), cho rằng: “thời kì mới của văn hóa Hán truyền bá về phương Nam bắt đầu từ triều đại nhà Tần và cao trào đầu tiên là từ khi nó truyền bá vào nước Nam Việt”5. Hà Thành Hiên dựa vào nhận xét đó, cho rằng “Nho học với tư cách là cốt lõi của văn hóa Hán, thì cao trào đầu tiên của nó là khi truyền bá vào nước Nam Việt”. Đương nhiên truyền bá một học thuyết không phải là công việc của một người, nhưng diễn viên chính ở đây không ai khác ngoài Triệu Đà. Triệu Đà người Chân Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, được xem là từ “tư tưởng đến hành động đều chịu nhiều ảnh hưởng của Nho học”. Chính sách cai trị của ông theo nguyên tắc “dĩ hòa vi quý” của Nho giáo. Ông rất tích cực truyền bá chữ Hán. Hai lần Giả Nghị (nhà nho đời Hán) đến thuyết phục ông thần phục nhà Hán theo tư tưởng Nho giáo, ông đều chấp nhận…đó là những lí do để cho ràng Triệu Đà là “nhân vật đầu tiên mở màn cho Nho học vào Lĩnh Nam”6 Sách Lịch sử Việt Nam không đề cập đến thời điểm truyền bá Nho giáo quá sớm như vậy. Với thái độ dè dặt, tác giả của sách cho rằng đến cuối thế kỷ II, Nho giáo mới thực sự được truyền bá ở nước ta: Từ Đông Hán trở về sau, nhất là từ cuối thế kỷ II, sĩ phu Hán tộc sang Giao Chỉ ngày càng đông. Nho giáo được phổ biến mạnh hơn trước. Những kinh điển của Nho gia như Luận ngữ, kinh Xuân Thu..được đem giảng dạy trong các trường học do chính quyền mở hoặc do sĩ phu lập. Theo học các trường này là con em bọn quan lại địa chủ Hán tộc và một số con em tầng lớp trên của xã hội Việt mà kẻ ngoại xâm dựa vào để cai trị. Tuy nhiên vào thời kì này, Nho học không thể xem là đã thịnh hành trên đất Việt. Số người Việt được học hành và đỗ đạt chẳng bao nhiêu. Kẻ thống trị nước ngoài chỉ nhằm đào tạo bộ máy cai trị của chúng một số thuộc viên làm tay sai mà thôi6” Về thời điểm này, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sứ thần Ngô Sĩ Liên bàn: Nước ta được thông Thi, Thư, Tập Lễ, Nhạc thành một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ vương. Công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn có thể truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?”7. Sách Việt sử thông giám cương mục không những không đánh giá Sĩ Nhiếp quá cao như Ngô Sĩ Liên mà còn có phần chê bai là đằng khác, không gọi Sĩ Nhiếp là Sĩ vương bởi vì Nhiếp chỉ là thái thú một quận: “Sĩ Nhiếp chẳng qua là một thái thú nhà Hán, tùy thời nịnh hót, cầu sao cho mình được an toàn chứ không có mưu lược tài cán gì giỏi cả8”. Thực ra thống trị ngoại bang vì muốn đề cao công lao “khai hóa” cho nên thường hạ thấp văn hóa của dân bản địa cũng là chuyện chẳng có gì khó hiểu. Có điều chắc chắn là nếu văn hóa của nước ta trước đó chỉ là con số không thì không làm sao có thể bảo toàn bản sắc văn hóa của mình sau hàng nghìn năm bị ngoại bang thống trị. Như vậy, Nho giáo truyền bá vào nước ta muộn nhất từ thế kỷ II, sớm hơn một chút là từ đầu công nguyên, sớm hơn nữa là từ thế kỷ II trước công nguyên. Nếu cho rằng Nho giáo truyền bá vào nước ta vào thế kỷ thứ II trước công nguyên thì tương ứng với Triều Tiên, Nhật Bản cũng không có gì là không hợp lí. Nho giáo vào Triều Tiên rồi mới truyền sang Nhật Bản, cho nên Nho giáo vào Triều Tiên sớm hơn Nhật Bản. Theo Đại từ điển triết học, mục Lịch sử triết học Triều Tiên (History of Korean philosophy)9, Nho giáo vào Triều Tiên từ thế kỷ I khi đất nước Triều Tiên đang bị tranh chấp giữa Cao Cú Lệ, Bách Tề và Tân La. Nhưng theo Khổng Tường Lâm, Nho giáo vào Triều Tiên từ thế kỷ I trước công nguyên và vào Nhật Bản từ thế kỷ II sau công nguyên10. Vương Thủ Hoa xác định rõ hơn về niên đại. Theo ông thì vào năm 284, Vương Nhân thuộc Bách Tề vào Nhật Bản mang theo sách Luận ngữ và Thiên tự văn, sự kiện đó có thể là cột mốc đánh dấu Nho giáo truyền bá vào Nhật Bản11. Liên quan đến truyền bá Nho giáo là xây dựng Văn miếu, nơi lễ bái, tỏ lòng tôn trọng đối với Khổng Tử, người sáng lập ra đạo Nho và các vị hiền triết. Nho giáo là sản phẩm của Trung Quốc, cho nên Văn miếu xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là lẽ đương nhiên. Hình thức đầu tiên là sau khi Khổng Tử qua đời, học trò lưu giữ vật dụng hàng ngày của Khổng Tử để cúng bái. Văn miếu ở Trung Quốc chính thức được xây dựng vào năm 492 (năm thứ 13, Thái Hòa, Bắc Ngụy). Năm 630 (năm thứ 4, Trinh Quan đời Đường), tất cả các trường học ở Châu, Huyện đều phải xây dựng Văn miếu. Từ đó Văn miếu trở thành phổ biến ở Trung Quốc. Ở Triều Tiên, năm 983 (năm thứ 2, Cao Lệ Thành Tông) mới phỏng theo Trung Quốc xây dựng Văn miếu trong Quốc tử giám. Đến dời Lý (thế kỷ XIII) toàn quốc đã có hơn 160 công trình Văn miếu. Nho giáo vào Nhật Bản muộn hơn Việt Nam, Triều Tiên nhưng Văn miếu lại xây dựng sớm hơn. Thời đại Nại Lương (Nara), năm 768, Văn miếu chính thức xây dựng trong Quốc tử giám13. Qua quá trình Nho giáo truyền bá vào Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, có thể rút ra vài nhận xét sau đây: Thứ nhất, Ở Việt Nam, nhiều sử sách xưa nay ghi chép Văn miếu được xây dựng vào năm 1070, Quốc tử giám vào năm 1076. Nếu điều đó là đúng14 thì trớ trêu thay, Nho giáo vào Việt Nam sớm nhất so với Triều Tiên và Nhật Bản nhưng Văn miếu và Quốc tử giám lại xây dựng muộn hơn cả. Thông thường xây dựng trường học rồi mới xây Văn miếu, ở ta thì làm ngược lại, phải chăng điều đó cũng chứng tỏ Việt Nam tiếp thu Nho giáo không “bài bản” như các nước khác? Thứ hai, Ở Việt Nam Nho giáo và Phật giáo du nhập khoảng cùng thời gian, nhưng ở Triều Tiên và Nhật Bản, Nho giáo du nhập sớm hơn Phật giáo. Phật giáo vào Triều Tiên từ thế kỷ IV, vào Nhật Bản thế kỷ VI. Như vậy, quan hệ Nho, Phật ở các nước đó không giống như ở Việt Nam và cũng không giống như ở Trung Quốc. Tam giáo ở Trung Quốc tranh chấp nhau kịch liệt rồi mới “đồng nguyên” ở thời nhà Tống, trên cơ sở Nho giáo. Ở Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, cả ba đạo đó đều là “ngoại nhập”, cho nên “đồng nguyên” trước rồi “phân hóa” sau. Thứ ba, Ở Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản đều có hiện tượng Nho giáo phê phán và thay thế Phật giáo. Điều đó xảy ra ở Việt Nam và Triều Tiên cùng vào khoảng thế kỷ XIII – XIV, còn ở Nhật Bản muộn hơn, vào thế kỷ XVI – XVII. Như vậy, có thể thấy xã hội phong kiến cả ba nước trong quá trình “lựa chọn” đều xem Nho giáo, đặc biệt là Tống Nho là tư tưởng chủ đạo. Tuy nhiên ở Triều Tiên cũng như ở Nhật Bản đều rất đề cao học thuyết “Tâm học” của Vương Dương Minh, trong khi ở Việt Nam lại không mặn mà với học thuyết này bao nhiêu. Thứ tư, Nói chung khi Nho giáo chưa được độc tôn thì học phong tương đối được tự do phát triển, nhưng khi Nho giáo được độc tôn thì ngược lại học phong lại rơi vào tình trạng bế tắc, khuôn sáo. Thứ năm, Nhật Bản tiếp thu ảnh hưởng của Trung Quốc, Ấn Độ muộn nhất, nhưng lại tiếp thu văn minh phương Tây sớm nhất. “Lan học” (Hà Lan) đến với xứ sở hoa Anh đào sớm nhất so với các nước trong khu vực văn hóa Nho giáo. Phàm những nơi nào kết hợp tốt văn minh phương Đông và văn minh phương Tây thì nơi đó kinh tế – xã hội phát triển tương đối nhanh. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Singapore…là những thí dụ. Thứ sau, Ở Trung Quốc thành lập Văn miếu, Quốc tử giám năm 492 như trên đã nói, lần đầu tiên mở khoa thi là vào năm 606 (Tùy Đại Nghiệp, năm thứ 6). Nghĩa là từ khi mở trường cho đến khi tổ chức thi phải mất hơn một trăm năm. Trong khi đó ở nước ta mở trường và tổ chức thi chỉ cách nhau vài ba năm, thậm chí thi trước rồi mới mở trường học sau! (thi năm 1075, xây Quốc tử giám năm 1076). Như vậy là không cần biết học với ai, học ở đâu, học như thế nào, nói cách khác là không cần biết đầu vào chỉ quan tâm đến đầu ra mà thôi! TAM GIÁO THỜI LÝ TRẦN Lịch sử là thời gian, thời gian thì chẳng có bắt đầu và cũng chẳng có kết thúc. Nhưng lịch sử không chỉ là thời gian, lịch sử có bắt đầu, cho nên nó cũng có kết thúc. Cho dù kết thúc là tiền đề của bắt đầu, cho dù thời gian là lịch sử, thì thời đại Lý – Trần vẫn mãi mãi là một trong những thời đại hoàng kim bậc nhất của lịch sử dân tộc. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, bốn trăm năm quá đủ để khẳng định tính độc lập, tự chủ, bản lĩnh dân tộc của quốc gia Đại Việt. Thời kì huy hoàng này không phải từ trên trời rơi xuống mà chính là sản phẩm của cả thiên niên kỉ đấu tranh bất khuất của dân tộc trước đó, đồng thời cũng là điểm tựa cho tương lai dân tộc hàng nghìn năm sau này. Thực ra ở thời đại Lý – Trần, dân tộc Việt Nam không tranh nhất, nhì với ai trên thế giới, nhưng có lẽ khong có lí do gì để ưu tư về cái gọi là “nguy cơ tụt hậu” cả. Không phải chỉ so sánh trong tương quan với châu Á mà ngay cả trên toàn thế giới. Thế kỉ XI – Xiv, là nửa sau của hàng nghìn năm trung thế kỉ của phương Tây. Ai cũng biết đó là thời kì thần quyền kết hợp với vương quyền, hay nói đúng hơn là thời đại của thần quyền. Bốn trăm năm thời Lý Trần ở Việt Nam không phải là thời đại của thần quyền mà là thời đại vương quyền. Người ta cho rằng, nói chung quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại là từ thần quyền đến vương quyền, từ vương quyền đến dân quyền….Thời Lý Trần ở Việt Nam không phải thần quyền mà là vương quyền, cho dầu Phật giáo ảnh hưởng không nhỏ trong xã hội lúc bấy giờ. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực văn hóa Nho giáo (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên…) chưa bao giờ thần quyền đặt trên vương quyền. Thời kì Lý Trần là đặc điểm của đặc điểm này. Không phải chỉ có Phật giáo, Đạo giáo mà ngay cả đến Nho giáo không nhiều thì ít đều có tính tôn giáo và đều trở thành cái gọi là “tam giáo đồng nguyên”, nhưng nhiều lắm cũng chỉ là cánh tay phải của vương quyền mà thôi. Đương nhiên thần quyền hay vương quyền không phải là tiêu chuẩn duy nhất để đo nấc thang tiến hóa của lịch sử, nhưng dẫu sao đó cũng là biểu hiện văn minh của văn minh nhân loại lúc bấy giờ. Trong khi phương Tây đang đi từ dưới đất lên trời, hướng lên trời để xoa dịu bất công ở dưới đất thì cũng vào lúc đó, thời Lý Trần ở Việt Nam lại đặt hết niềm tin vào thế giới bên này thay vì cầu phúc ở thế giới siêu việt bên kia. Chính vì vậy nhiều nhà tư tưởng khai sáng thời Phục hưng ở phương Tây như Voltaire, Diderot, Montesquieu…đều dựa vào văn hóa “hướng xuống đất” ở phương Đông để chống lại văn hóa “hướng lên trời” của nhà thờ trung thế kỷ.Vì vậy nên bước đi chậm dần của lịch sử Việt Nam sau đó so với phương Tây không phải là “lỗi” của thời Lý Trần, không phải do tiên thiên bất túc mà chủ yếu là do hậu thiên tạo ra. Nói như vậy không có nghĩa là ở thời Lý Trần, lịch sử Việt Nam chỉ có những bước tiến mà không có những bước lùi so với đương thời ở phương Tây. Bước tiến về thế giới quan thời Lý Trần không nhiều thì ít, dĩ nhiên không thể không chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên nhân tố quyết định tính chất của thời Lý Trần không phải do bên ngoài mà do bên trong. Cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc nhưng Việt Nam không giống như Nhật Bản, Triều Tiên và cũng khác với văn hóa mà nó chịu ảnh hưởng. Thời kỳ Tống Nguyên (tương đương với thời Lý TRần), Nho giáo ở Trung Quốc đã đạt tới đỉnh cao. Tư duy triết học của Nho giáo càng phát triển bao nhiêu càng gắn chặt với hệ thống chính trị phong kiến bảo thủ bấy nhiêu. Nó không bắt người ta hướng lên trời như phương Tây. Nó thay thế mục tiêu “trời” xa vời bằng mục tiêu “con trời” (thiên tử) gần gũi hơn. Nói đúng hơn là hai mục tiêu kết hợp làm một, cái siêu việt cũng là cái hiện thực và cái hiện thực cũng là cái siêu việt. Không phải mọi người đều bình đẳng như nhu trước “chúa trời” mà thôi. Nấc thang đẳng cấp xã hội hiện hữu chặt chẽ từ bên trong lẫn bên ngoài. Đẳng cấp bao giờ cũng tỉ lệ ngược với bình đẳng và tự do. Xã hội vừa bị bắt buộc vừa tự nguyện vận hành theo “đơn tuyến”. Chỉ có “trên” nói “dưới” nghe, “trên” bảo “dưới” làm, chân lý bao giờ cũng thuộc về “trên” chứ không bao giờ thuộc về “dưới” cả. Học thuyết Lý – Khí của Tống Nho thực ra không nằm ngoài mục đích đó. Vì vậy nên Đới Chấn (1723 – 1777) đã điểm đúng huyệt ý đồ chính trị của quan điểm triết học Lí – khí của Tống Nho: “Bề trên lấy “lý” để tráchBề trên lấy “lý” để trách phạt kẻ dưới, bậc trưởng bối lấy “lý” để trách mắng kẻ hậu sinh, người giàu sang quyền quý lấy “lý” để trách cứ kẻ nghèo hèn cực khổ. Bên trên cho dù có sai cũng thành đúng còn kẻ dưới, kẻ hậu sinh, kẻ cùng khổ dựa vào “lý” để cãi lại, cho dù có đúng đi nữa cũng thành sai” (tôn giả dĩ lý trách ti, trưởng giả dĩ lí trách ấu, quý giả dĩ lí trách tiện, tuy thất vị chi thuận, ti giả, ấu giả, tiện giả dĩ lí tranh chi, tuy đắc vị chi nghịch. Mạnh Tử tự nghĩa sơ chứng). Không phải chỉ có Đới Chấn mới lên án Tống Nho “dựa vào lí để giết người” (dĩ lí sát nhân) mà hầu hết như các triết gia “thực học” thời Minh – Thanh, trong đó có Hoàng Tông Hy (1610 – 1695), đều cùng một tiêu điểm. Hoàng Tông Hy phê phán quan niệm “công” và “tư” thiên lệch, đơn tuyến. Vua đâu phải là đại diện cho cái gọi là “công”, nhưng lại “thay cái đại công trong thiên hạ bằng cái đại tư của riêng mình” (dĩ ngã chi đại tư vi thiên hạ chi đại công. Minh di đãi phỏng lục, Nguyên quân). Hoàng Tông Hy còn phê phán quan niệm xã hội “trị”, “loạn” đơn tuyến: “Thiên hạ yên ổn hay loạn lạc không phải biểu hiện ở chỗ tồn vong của một dòng họ mà chính là ở chỗ trăm họ đau khổ hay vui sướng” (Thiên hạ chi trị loạn bất tại nhất tính chi hưng vong, nhi tại vạn dân chi ưu lạc. Nguyên thần). Như vậy là vào thời kì lịch sử đồng đại với Lý Trần, Trung Quốc đã hoàn chỉnh thể chế chính trị phong kiến cũng như hệ tư tưởng chủ đạo Tống Nho, nhưng lại có phần quá đà. Triều đại Tống Nguyên đã kéo dài và xiết chặt thêm thể chế “nhất thống pháp lệnh” (pháp lệnh do nhất thống) của nhà Tần lẫn chính sách “độc tôn Nho giáo, loại bỏ mọi học thuyết” (bãi truất bách gia, độc tôn Nho giáo) của nhà Hán, nhưng lại trượt dài trên con đường phản nhân văn. Nho giáo thời Tiên Tần ít ra cũng còn kêu gọi hãy bình đẳng đối với bản tính con người, “tính tương cận”, “tính bản thiện”, ai ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn…..Khổng Tử chẳng đã từng nói “thái quá” cũng như “chưa tới” (quá do bất cập) đó sao? Tính đẳng cấp xã hội và tư duy đơn tuyến, giáo điều có tính tôn giáo hay “tôn giáo hóa” như nhiều học giả nhận xét ở thời kì Tống Nguyên, quả đã có tác dụng không nhỏ về củng cố thể chế chính trị nhưng lại tạo ra một bước lùi, đánh mất tính hài hòa trong quan hệ xã hội, trong đời sống tinh thần của con người. Như vậy là thời Tống Nguyên đã “quá” một bước nhưng lại “bất cập” một bước so với thời Lý Trần. Kỷ nguyên độc lập của dân tộc được Ngô Quyền mở đầu ở thế kỉ thứ X, tuy trải qua ba triều đại Ngô, Đinh, Lê nhưng thời gian “thực tập” để hình thành một “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” chỉ khoảng hơn 60 năm, thật quá ngắn ngủi đối với một dân tộc hàng nghìn năm không có chủ quyền. Triều đại nhà Lý “chính thức” mở đầu kỉ nguyên mới của quốc gia Đại Việt hùng mạnh trên bản đồ thế giới chứ không riêng gì châu Á. Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn đã phủ định thời kì thiên về phòng thủ của Đinh, Lê trước đó và thay thế bằng kỉ nguyên củng cố trong phát triển. Nên nhớ xu thế phát triển là xu thế đang đặt ra, mới bắt đầu đặt ra, chứ không phải đã được đặt ra. Cho nên ý thức củng cố chưa bao giờ bị xem nhẹ. “Tả” khuynh trong xu thế phát triển không có nhiều lí do để tồn tại lúc bấy giờ. Lý Công Uẩn đổi tên Đại La thành Thăng Long cũng thể hiện điều đó và cũng để nhắc nhở con cháu về sau đừng bao giờ quên điều đó. Lý Công Uẩn rất am hiểu Kinh Dịch, hào “sơ cửu” [……….] (hào đầu tiên) trong quẻ Càn [….] là “tiềm long vật dụng” [………] tức là rồng còn ở trong vực, hào “cửu nhị” (hào thứ hai) là “hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân” nghĩa là rồng đã hiện ra nơi cánh đồng, điều kiện thuận lợi để tiếp xúc vơi bên ngoài”. Cho nên “Thăng Long” không phải là “Rồng bay” mà chỉ là “Rồng hiện”. “Thăng” không phải lúc nào cũng có nghĩa là