Xây dựng và phát triển nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự 
quản lý của nhà nước là chủ trương chiến lược, lâu dài, đúng đắn của đảng ta và bước 
đầu đã thu được những thành công hết sức đáng khích lệ. Sự thành công này là do công 
sức đóng góp to lớn của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà 
nước. Vai trò của Nhà nước là cực kì quan trọng. Quản lý Nhà nước về kinh tế là một yếu 
tố có tính chất quyết định đối với sự phát triển của mọi đất nước. Do đó, việc nghiên cứu 
vai trò kinh tế của Nhà nước có ý nghĩa to lớn. Đây là vấn đề lớn, nhưng trong giới hạn 
cho phép xin đề cập giải quyết một số nội dung cơ bản và được phản ánh ở 4 vấn đề 
chính sau: 
Thứ nhất, sự cần thiết, khách quan của vai trò quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước. 
Thứ hai , những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội 
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ ba, mục tiêu và chức năng quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Thứ tư, một số giải pháp cơ bản, nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của 
Nhà nước ta hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3671 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Một số giải pháp cơ bản, nhằm 
đổi mới và tăng cường vai trò 
kinh tế của Nhà nước ta hiện nay 
Lời nói đầu 
Xây dựng và phát triển nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự 
quản lý của nhà nước là chủ trương chiến lược, lâu dài, đúng đắn của đảng ta và bước 
đầu đã thu được những thành công hết sức đáng khích lệ. Sự thành công này là do công 
sức đóng góp to lớn của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà 
nước. Vai trò của Nhà nước là cực kì quan trọng. Quản lý Nhà nước về kinh tế là một yếu 
tố có tính chất quyết định đối với sự phát triển của mọi đất nước. Do đó, việc nghiên cứu 
vai trò kinh tế của Nhà nước có ý nghĩa to lớn. Đây là vấn đề lớn, nhưng trong giới hạn 
cho phép xin đề cập giải quyết một số nội dung cơ bản và được phản ánh ở 4 vấn đề 
chính sau: 
 Thứ nhất, sự cần thiết, khách quan của vai trò quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước. 
 Thứ hai , những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội 
chủ nghĩa ở Việt Nam. 
 Thứ ba, mục tiêu và chức năng quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước. 
 Thứ tư, một số giải pháp cơ bản, nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của 
Nhà nước ta hiện nay. 
************************* 
Nội dung 
I. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế 
1. Lịch sử ra đời và vai trò quản lí kinh tế của nhà nước 
 Con người ngay từ buổi sơ khai ban đầu đã biết quy tụ nhau lại thành bầy,nhóm để 
tồn tại với hai mục tiêu bảo đảm an toàn để tiến hành các hoạt động sinh sống;dần dần sự 
cộng sinh tồn tại đó được tổ chức ngày một chặt chẽ và tạo thành các xã hội với các hoạt 
động đa dạng và phong phú trên trái đất. Xã hội không phải là phép cộng đơn giản các cá 
nhân, mà là một hệ thống các hoạt động, các quan hệ của con người, có đời sống kinh tế, 
văn hoá chung, cùng cư trú trên một lãnh thổ ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch 
sử. 
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi xã hội chưa phân thành giai cấp, chưa có sự 
đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người, thì qui tắc xử sự chung của toàn xã hội 
được thực hiện bằng sự tự giác của mỗi người trong xã hôị, bằng uy tín của các thủ lĩnh, 
lãnh tụ trong cộng đồng. 
Sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, xã hội loài người phân chia thành giai 
cấp, bắt đầu sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các nhóm, các tập đoàn người thì sự đấu 
tranh giữa họ ngày càng gay gắt. trong điều kiện đó, để giữ cho xã hội trong vòng kỉ 
cương nhất định giai cấp thống trị nắm trong tay những lực lượng chủ yếu, những công cụ 
bạo lực lớn – các yếu tố chủ yếu tạo nên quyền lực xã hội, tìm cách tổ chức nên một thiết 
chế đặc biệt với những công cụ đặc biệt – thiết chế nhà nước và Nhà nước bắt đầu xuất 
hiện. 
Như vậy, Nhà nước ra đời khi sản xuất và văn minh xã hội phải phát triển và đạt đến 
một trình độ nhất định, cùng với sự phát triển đó là sự xuất hiện chế độ tư hữu, và xuất 
hiện giai cấp trong xã hội. Nhà nước thực chất là một thiết chế quyền lực chính trị, là cơ 
quan thống trị giai cấp của một hoặc một nhóm giai cấp này đối với một hoặc toàn bộ các 
giai cấp khác, đồng thời còn để duy trì và phát triển xã hội mà Nhà nước đó quản lí trước 
các Nhà nước khác. Nhà nước còn là tổ chức công quyền thống nhất quản lý toàn xã hội 
hoặc đến các đối tượng liên quan đến xã hội nhằm sắp xếp, tổ chức, bảo toàn những đặc 
trưng về chất của chúng, hoàn thiện và phát triển chúng theo hướng nhất định, tức là:Nhà 
nước không chỉ là công cụ trong tay giai cấp thống trị mà quyền lực đại diện cho lợi ích 
chung của toàn cộng đồng xã hội. 
Trong các đặc trưng về chất, đặc trưng về mặt Kinh tế gồm: vấn đề sản xuất và vấn đề 
lợi ích Kinh tế là quan trọng nhất, vì các hoạt động Kinh tế ngày một trở nên là các hoạt 
động cốt lõi của xã hội. Các Nhà nước trước Chủ nghỉa xã hội về cơ bản là đại diện cho 
quyền lợi thiểu số giai cấp thống trị giàu có nhằm bóc lột, nô dịch đại đâ số nhân dân lao 
động trong và ngoài nước. Đặc biệt là Nhà nước tư sản, thông qua luật pháp, chính sách 
và các công cụ quản lí khác để chi phối các hoạt động Kinh tế và xã hội, duy trì và phát 
triển lợi ích của các nhà tư bản. Dù dưới nhiều hình thức khác nhau, các nhà lí luận bênh 
vực cho các nhà tư sản đã không thể phủ nhận bản chất giai cấp Nhà nước, Nhà nước đó 
là tên lính canh cửa của chế độ sở hữu tư sản đúng như C. Mác đã phê phán: “chính 
những tư tưởng của các ông là con đẻ của chế độ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như 
pháp quyền của các ông chỉ là ý chí cua giai cấp các ông, được đề lên thành pháp luật, các 
ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết 
định”. 
Trong lĩnh vực Kinh tế, cùng với việc chuyển biến mạnh mẽ từ chủ nghĩa tư bản tự do 
cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền ở các nước phát triển, để giải quyết những 
hiện tượng Kinh tế xã hội nảy sinh, đã có nhiều lí thuyết về vai trò thực tế của Nhà nước 
trong việc điều chỉnh nền Kinh tế thị trường. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất, sự phát 
triển của khoa học công nghệ cũng như những khó khăn về Kinh tế của Chủ nghĩa tư bản 
đòi hỏi phải có sự phân tích tình hình mới. 
 ở giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư bản, các lí thuyết 
Kinh tế tư bản đã chứng minh sự ra đời tất yếu và sứ mệnh tiến bộ của phương thức tư 
bản chủ nghĩa và chống lại các thế lực phong kiến. Nhưng, từ thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 
19, trường phái cổ điển và tân cổ điển mới coi nhà nước tư bản chỉ là người canh gác và 
bảo về tài sản cho Chủ nghĩa tư bản, họ ủng hộ nguyên tắc tự do Kinh tế, chưa nhìn thấy 
vai trò điều chỉnh Kinh tế của Nhà nước. Adam Smith một nhà Kinh tế học người Anh 
cho rằng: “hoạt động Kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay 
quy luật khách quan chi phối.” 
Tất cả được giải quyết thông qua thị trường. Sang thời kì công nghiệp hoá, Chủ nghĩa 
tư bản phát triển nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn, người ta chỉ phê phán 
những tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ chưa thấy rõ vai trò cần thiết của Nhà 
nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển, khắc phục các mất cân đối. Nhưng rồi 
Chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ những mâu thuẫn và nhược điểm, không chỉ những 
mâu thuẫn về giai cấp mà cả những mâu thuẫn giữa các giai đoạn của quá trình tái sản 
xuất, giữa các ngành Kinh tế, giữa thành thị và nông thôn…đã làm xuất hiện tính khủng 
hoảng chu kì của nền Kinh tế TBCN. Trước đòi hỏi thực tiễn, nhiều nhà Kinh tế TB đã 
đưa ra các học thuyết khác nhau đễ lí giải mâu thuẫn và tìm đến vai trò của Nhà nước , 
trong việc điều chỉnh các mâu thuẫn nhằm giải quyết các mất cân đối trong quá trình tái 
sản xuất và giảm nhẹ các cuộc khủng hoảng mang tính chu kì. Tuỳ giác độ và điều kiện 
nghiên cứu cụ thể khác nhau và đưa ra các khuyến nghị khác nhau; trong đó chủ yếu là 
việc điều chỉnh sự bóc lột của giai cấp TS đối với người lao động. 
 Tuy nhiên, trong các lí thuyết ấy, dù góc độ xem xét khác nhau, dù quan niệm khác 
nhau về chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước nhưng họ đều thấy một thực tế là: theo đà 
phát triển của sản xuất, chức năng của Nhà nước sẽ tăng lên. Tuy nhiên họ vẫn cho rằng: 
tự do Kinh tế là sức mạnh hoạt động của nền Kinh tế TBCN . Họ tin vào cơ chế thị 
trường và sự điều tiết hoạt động theo cung cầu và giá cả. Theo sự điều tiết hoạt động 
của:”bàn tay vô hình” mà quá trình tái sản xuất bảo đảm được tỉ lệ cân đối và duy trì được 
sự phát triển bình thường. 
Song cuộc khủng hoảng Kinh tế của Chủ nghĩa tư bản bắt dầu từ năm 1925 và trở nên 
thường xuyên hơn vào những năm 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ “bàn tay vô hình “ 
không thể bảo đảm cho nền Kinh tế TBCN phát triển bìmh thường. Hơn nữa, xu hướng 
xã hội hoá sản xuất càng cao đã cho thấy cần phải có một lượng nhân danh xã hội can 
thiệp vào quá trình Kinh tế , điều tiết Kinh tế. 
J. M. Keynes- Nhà Kinh tế học nổi tiếng người Anh, trên cơ sở đánh giá vai trò của 
Nhà nước ở vị trí hoàn toàn khác đã sáng lập ra lí thuyết “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết 
“. Ông cho rằng :Cơ chế thị trường không thể đẩm bảo cho việc sử dụng đầy đủ các nhân 
tố sản xuất để đảm bảo cho Chủ nghĩa tư bản hoạt động bình thường , tránh đuược thất 
nghiệp và khủng hoảng. 
Keynes đã đứng trên giác độ quả lí Kinh tế vĩ mô nền Kinh tế để phân tích các mâu 
thuẫn và những mất cân đối vốn có trong nền Kinh tế TBCN ở giai đoạn Chủ nghĩa tư bản 
độc quyền . Ông cho rằng xã hội loài người có sự tồn tại “quy luật tâm lí chủ yếu “ là khi 
thu nhập cũng tăng thì khuynh hướng tiêu dùng giảm xuống” mà khuynh hướng tiết kiệm 
càng phát triên. Điều đó dẫn đến sự giảm “cầu” mà “cầu” lại là động lực để phát triển sản 
xuất. Để tiếp tục phát triển sản xuất, để khôi phục lại sự cân bằng phải tạo ra “cầu tích 
cực” bằng sự can thiệp của Nhà nước nhằm tăng chi phí cho ngân sách, cho đầu tư và tiêu 
dùng. J.M Keynes còn chứng minh rằng việc giải quyết vấn đề thất nghiệp phụ thuộc vào 
các điều kiện chung cuả tái sản xuất và là vấn đề Kinh tế vĩ mô, từ đó đặt lên vai Nhà 
nước chức năng “toàn dụng” tất cả các nguồn lực, trong đó có sức lao động. Để làm được 
điểu đó nhà nước không chỉ dừng lại ở việc thực hiện một số biện pháp để tạo điều kiện 
thuận lợi cho việc kinh doanh của nhà tư bản mà phải thực hiện những chức năng quản lí 
vĩ mô nền Kinh tế với sự nghiên cưú và dự báo xu hướng phát triển trong tương lai, xây 
dựng các kế hoạch để tạo ra “cầu tích cực” và đề ra biện pháp can thiệp, điều chỉnh thích 
hợp nhắm khắc phục những mâu thuẫn quá trình tái sản xuất. 
Thực tế cho thấy vai trò quản lí của Nhà nước là cực kỳ quan trọng. Nhà nước quản lí 
tồi sẽ đưa tới đất nước nghèo, lầm than, đổ vỡ, chiến tranh. Nhà nước quản lí tốt sẽ đưa 
đất nước tới sự giàu mạnh, phát triển thậm chí có sự bành trướng 
2. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
a. Bản chất Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước kiểu mới, có bản chất 
khác với bản chất của Nhà nước giai cấp bóc lột. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – 
Lênin, Nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nguyên lí 
này đúng với mọi Nhà nước nói chung, nhưng với Nhà nước ta, do những đặc điểm về 
mặt bản chất giai cấp, nó là sự thể hiện nền dân chủ cao nhất. Do đó nó có vai trò sáng tạo 
lớn nhất trong việc xây dựng Xã hội chủ nghĩa. Mà đặc điểm cơ bản là: 
 Thứ nhất, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do 
dân và vì dân. Nguyên tắc cao nhất của chế độ ta là “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về 
nhân dân” “Nhà nước Việt Nam là do giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân, 
tầng lớp trí thức làm nền tảng; liên minh với tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác 
và hơn nữa, thu hút cả những phần tử tư sản đang tồn tại và phát triển một cách hợp pháp 
đó là Nhà nước đảm bảo xây dựng xã hội đi theo con đường hướng lên Chủ nghỉa xã hội, 
theo lập trường tư tưởng, lí tưởng của giai cấp công nhân; mà cũng là nguyện vọng của 
nhân dân lao động, của dân tộc. 
 Thứ hai, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cơ quan thống trị 
giai cấp, là một bộ máy thống nhất quản lí xã hội về mọi mặt. Nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa là hình thức tổ chức của Nhà nước. Một mặt Nhà nước thực hiện dân chủ với đại đa 
số nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của Xã hội chủ nghĩa. Mặt khác tổ chức xây dựng 
lên một xã hội mới – xã hội Xã hội chủ nghĩa và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội ấy 
không ngừng phát triển 
b. Các quan điển và nguyên tắc cơ bản của thiết chế Nhà nước cộng hoà xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam 
Thứ nhất, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân 
Thứ hai, quyền lực Nhà nước là thống nhất, không phân chia nhưng có phân công rành 
mạch giữa các quyền 
Thứ ba, nguyên tắc tập chung dâ chủ là chủ đạo 
Thứ tư, xây dựng một Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa 
3. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền Kinh tế 
thị trường 
 Vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp 
chung và do tính chất xã hội hoá của sản xuất qui định. Lực lượng sản xuất càng phải phát 
triển, trình độ xã hội hoá của sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng cần 
thiết và mức độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. 
 Như đã biết nển Kinh tế hàng hoá với cơ chế Kinh tế thị trường là bước phát triển tất 
yếu của Kinh tế tự cấp, tự túc, một trình độ cao của sự xã hội hoá sản xuất… tuỳ theo 
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ đạt được của sự xã hội hoá sản xuất ở 
mỗi nước và trong từng thời kỳ mà giữa chúng có quan hệ tỉ lệ nhất định đảm baỏ cho sự 
phát triển cân đối, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên 
ngoài. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thường xuyên của 
nhân tố tự nhiên, xã hội, Kinh tế, chính trị và đối ngoại làm cho các quan hệ tỉ lệ luôn 
biến động. Các quan hệ tỉ lệ đó có thể phù hợp với yêu cầu của các qui luật và tính qui 
luật vận động khách quan, phát triển Kinh tế xã hội và tạo điều kiện cho Kinh tế tăng 
trưởng; ngược lại các quan hệ tỉ lệ đó có thể không phù hợp và làm cho nền Kinh tế rơi 
vào tình trạng trì trệ, yếu kém. Đặc biệt là, khi các quan hệ Kinh tế được hình thành và 
phát triển thì các hoạt động Kinh tế trong và ngoài nước xâm nhập, tác động lẫn nhau, 
các nguồn lực bên trong – bên ngoài có thể di chuyển phù hợp hay không phù hợp với yêu 
cầu phát triển trong nước; qui mô và cơ cấu nền Kinh tế có thể dịch chuyển theo hướng 
tiến bộ, hợp lí tối ưu hay lạc hậu, bất hợp lí, mất cân đối, và nền Kinh tế dân tộc của mỗi 
quốc gia ở vào vị trí phụ thuộc hay là một khâu cần thiết của hệ thống phân công lao động 
quốc tế. Có thể nối vận mệnh của mỗi nền Kinh tế quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các 
quan hệ bên trong, mà còn phụ thuộc vào các quan hệ bên ngoài: thị trường khu vực và 
quốc tế 
 Tình hình đó đã đặt lên vai các Nhà nước nhiệm vụ không chỉ là “người lính” bảo 
vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia, mà còn là người hiểu biết qui luật vận động và phát 
triển của nền sản xuất xã hội, nắm vững và dự báo các diễn biến Kinh tế trong và ngoài 
nước, có khả năng sử dụng các đòn bẩy Kinh tế thành hệ thống các luật lệ, các qui chế 
đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động: Kinh tế, đối ngoại, định 
hướng phát triển của các ngành – vùng, lĩnh vực… nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối trong 
sự phát triển do chính các qui luật và tính khách quan của đời sống Kinh tế – xã hội quy 
định. Có thể khẳng định rằng, yêu cầu cân đối trong sự phát triển nền Kinh tế cơ sở kháh 
quan, sâu xa của vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế. Trong nền Kinh tế hàng hoá 
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, được thể hiện như sau: 
Thứ nhất, trong nền Kinh tế hàng hoá vận độngtheo cơ chế thị trường, mỗi chủ thể 
kinh doanh, mỗi địa phương… đều có lợi ích riêng của mình và đều tìm mọi biện pháp để 
tối ưu hoá lợi ích đó. Nhưng khi thực hiện các hoạt động đó, mỗi doanh nghiệp, mỗi 
ngành, mỗi địa phương có thể nhìn hoặc không nhìn thấy sự vi phạm đối với lợi ích của 
người khác, ngành, vùng khác; và do đó tất yếu nảy sinh hiện tượng lợi ích của cá nhân, 
bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi tổng thể của nền Kinh tế quốc dân 
Biểu hiện: các hoạt động Kinh tế chồng chéo, cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau, các quan 
hệ tỉ lệ Kinh tế quốc dân bị phá vỡ sự phân bố các nguồn lực không hợp lí, cơ cấu Kinh tế 
bị đảo lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh… 
Muốn khắc phục nhược điểm này, cần có một bộ phận điều hành vĩ mô bằng việc 
hoạch định chương trình, chiến lược về kế hoạch phát triển với các mục tiêu về qui mô, 
về cơ cấu, nhịp độ và tốc độ tăng trưởng của từng ngành – vùng, về các mục tiêu Kinh tế 
vĩ mô khác, cũng như của toàn bộ nền Kinh tế từng cá nhân, doanh nghiệp - ngành – 
vùng trong nước. Bộ phận điều hành việc đó không ai khác là Nhà nước – chủ thể Kinh tế 
của mỗi quốc gia. Như vậy nếu không có vai trò của Nhà nước, sẽ không có việc phân bố 
sản xuất và lao động giữa các ngành – vùng để hình thành cơ cấu Kinh tế hợp lí tối ưu; sẽ 
không có sự phát triển của ngành có ý nghĩa thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ trong 
toàn bộ nền Kinh tế quốc dân. Sẽ không có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, bảo 
hộ sản xuất trong nước, chiếm lính thị trường nước ngoài. Nếu không có Nhà nước, sẽ 
không có nguồn tích luỹ tập trung qui mô lớn để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát 
triển Kinh tế xã hội và giải quyết những cơ chế thị trường không thể thực hiện được, đặt 
biệt là các vấn đề về kết cấu hạ tầng xã hội. 
Thứ hai, trong nền Kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản xuất 
kinh doanh, hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và các qui luật của thị 
trường. Song đối với các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ công cộng là những loại 
hàng hoá và dịch vụ mà chi phí bỏ ra đem lại lợi ích cho nhiều người, nhưng lại không 
được thanh toán và bồi hoàn đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản 
xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng hướng ngoại tiêu cực tràn ra thị trường không được tính 
toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị 
Kinh tế, gây ra một tổn phí lớn trong xã hội và không tối ưu hoá được lợi ích xét trên 
phạm vi toàn xã hội. Thì tư nhân không thể cung cấp được. Điều này là hiển nhiên vì tư 
nhân không thể chi phối được giá cả và thu hồi được chi phí bỏ ra, và xã hội cũng không 
chấp nhận những hoạt động sản xuất và tiêu dùng chỉ nhằm tối đa hoá lợi ích của người 
khác, và lợi ích cộng đồng. Do vậy, Nhà nước với tư cách chủ thể nền Kinh tế quốc dân, 
với mục tiêu Kinh tế vĩ mô, cần thiết phải nắm và đảm bảo cho xã hội những loại hàng 
hoá và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hoá ma nếu nằm trong tay tư nhân sẽ làm 
thiệt hại đến lợi ích toàn xã hội 
Thứ ba, cơ chế thị trường cần có môi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động, song 
những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này lại đẻ ra xu hướng phủ định chính những 
điều kiện hoạt động của bản thân nó như: chạy theo lợi nhuận cục bộ sẽ dẫn tới sự phân 
bố và sử dụng các nguồn lực không hợp lí; vì lợi ích Kinh tế cá nhân, cục bộ mà chà đạp 
lên lợi ích chung, phá hoại môi sinh, gây ô nhiễm môi trường… 
Cơ chế thị trường “bàn tay vô hình” – không thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà 
đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước. Vì thế Nhà nước có chức năng bảo đảm về mặt chính 
trị và xã hội, bảo hiểm về mặt Kinh tế nhằm duy trì các quan hệ vì lợi ích giữa các giai 
cấp và tầng lớp xã hội trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất thống trị và bảo vệ được 
quyền lợi và địa vị giai cấp thống trị. Chỉ có trên cơ sở ấy mới có bầu không khí chính trị 
và môi trường Kinh tế, xã hội ổn định, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận động với 
cơ cấu và các quan hệ Kinh tế dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất đạt được mỗi 
nước 
Thứ tư, xu hướng hoà nhập nền Kinh tế dân tộc của mỗi nước vào thị trường thế giới 
ngày một tăng. Những diễn biến Kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng 
rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng 
như việc khai thác và sử dụng những tác động có lợi đòi hỏi có vai trò của Nhà nước. Nhà 
nước cần và có điều kiện để thực hiện vai trò này, vì trong quan hệ quốc tế, Nhà nước là 
chủ thể của nền Kinh tế độc lập, có chu quyền có lợi ích Kinh tế tách biệt, Nhà nước lại 
nắm trong tay những quyền lực Kinh tế quốc phòng quan trọng của đất nước. Để bảo vệ 
lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích giai cấp, Nhà nước của mỗi nước phải trực tiếp tác 
động đến quan hệ Kinh tế đối ngoại nhằm khống chế những hoạt động bất lợi cho nền 
Kinh tế có lợi trong khu vực và quốc tế 
Thứ năm, vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế không chỉ ở sự điều tiết, khống chế, 
định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy Kinh