Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông Cửu Long,
với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần
Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, có
diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số trên 16 triệu người, chiếm 12% diện tích và
21% dân số cả nước, hàng năm đóng góp trên 80% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy
sản để xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ được đánh giá là một vùng đất
trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên
nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, mà còn được xem như là
một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến lược trong nền kinh tế nước ta nhất là trong sản
xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho
quốc gia, mà còn cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều thiên tai lũ
lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khô, 6 tháng mùa nước. Chính lũ lụt
là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng bằng sông Cửu Long thêm màu mỡ, trù
phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa phèn, bồi đắp phù sa, tạo lợi thế riêng có về khai
thác và nuôi trồng thủy sản… Đồng thời cũng chính lũ lụt lại là nguyên nhân chính gây
nhiều thiệt hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng kỹ thuật…
114 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2105 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - Xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Những vấn đề đặt ra và các giải pháp
nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An
Giang trong mùa nước nổi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông Cửu Long,
với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần
Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, có
diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số trên 16 triệu người, chiếm 12% diện tích và
21% dân số cả nước, hàng năm đóng góp trên 80% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy
sản để xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ được đánh giá là một vùng đất
trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên
nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, mà còn được xem như là
một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến lược trong nền kinh tế nước ta nhất là trong sản
xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho
quốc gia, mà còn cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều thiên tai lũ
lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khô, 6 tháng mùa nước. Chính lũ lụt
là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng bằng sông Cửu Long thêm màu mỡ, trù
phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa phèn, bồi đắp phù sa, tạo lợi thế riêng có về khai
thác và nuôi trồng thủy sản… Đồng thời cũng chính lũ lụt lại là nguyên nhân chính gây
nhiều thiệt hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng kỹ thuật…
Bên cạnh đó, do đặc thù về tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông
ngòi chằng chịt, vừa có tác dụng đưa nước vào đồng, phục vụ sinh hoạt và lưu thông lại
vừa có tác dụng thoát lũ nên không giống như vùng đồng bằng sông Hồng là đắp đê
chống lũ triệt để, vùng đồng bằng sông Cửu Long phải chọn giải pháp là sống chung với
lũ. Sống chung với lũ là một hiện tượng tự nhiên, xã hội đã và đang được cư dân vùng
đồng bằng sông Cửu Long tiếp nhận trong suốt quá trình hình thành và phát triển của
vùng đất này. Từ chỗ sống chung với lũ một cách thụ động, con người ngày càng hiểu
thêm về lũ, nắm bắt được nhiều hơn những quy luật của lũ để dần hạn chế đến mức thấp
nhất những tác hại do lũ mang lại cũng như khai thác tối đa những lợi ích mà lũ mang lại,
tiến dần đến chủ động sống chung với lũ, kiểm soát một cách hiệu quả hiện tượng tự
nhiên này.
An Giang là tỉnh đầu nguồn, có toàn bộ diện tích nằm trong vùng lũ và phải chịu
ảnh hưởng của lũ lâu dài và nặng nề nhất. Thời gian chịu lũ kéo dài khoảng 6 tháng trong
năm nên vấn đề được đặt ra là làm thế nào để khai thác một cách có hiệu quả nhất những
công trình, cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ đã được đầu tư phục vụ cho việc chủ động sống
chung với lũ, khai thác tối đa những lợi thế của lũ cũng như trong phát triển kinh tế - xã
hội, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do lũ mang lại.
Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996 về định hướng dài
hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và xây
dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long, cho quá trình chủ động sống chung với
lũ. Song quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên cứu như: xây dựng
các cụm tuyến dân cư vượt lũ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân
trong mùa lũ nhưng cũng làm thay đổi phong tục, tập quán, cách sống của nhân dân; xây
dựng đê bao chống lũ kết hợp với phát triển đường giao thông nông thôn nhưng cũng
ngăn không cho nước tràn đồng, có thể làm tăng mực nước lũ trên các dòng chính...
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: "Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm
phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi "
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc chủ động sống chung với lũ, thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn An Giang. Qua đó,
tổng kết kinh nghiệm và góp phần thúc đẩy quá trình khai thác lợi thế mùa nước nổi của
người dân vùng lũ bao đời nay từ tự phát lên tự giác dưới sự định hướng và hỗ trợ của
Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu về lũ ở châu thổ sông Cửu Long đã các công trình sau:
GS.TS Nguyễn Ngọc Trân (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long tài nguyên -
môi trường - phát triển", Ủy ban Khoa học Nhà nước (Chương trình điều tra cơ bản tổng
hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long), Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng bằng
sông Cửu Long, 1990. Đây là công trình của Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước về điều
tra, nghiên cứu, đánh giá tài nguyên và điều kiện thiên nhiên của đồng bằng sông Cửu
Long, từ đó đưa ra những nhận định về tiềm năng nông nghiệp và những kiến nghị khoa
học về sử dụng và bảo vệ tài nguyên, cung cấp các tư liệu điều tra, nghiên cứu khoa học
làm luận cứ cho quy hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyễn Công Bình (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu phát
triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Đây là những chuyên đề khảo cứu về đồng
bằng sông Cửu Long dưới góc độ các ngành khoa học về lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa,
tự nhiên, môi trường, kỹ thuật, nông nghiệp.
PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Định hướng và một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế vùng ngập lụt đồng bằng sông Cửu Long", Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền
Nam, 1998.
PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Những biện pháp thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã hội của vùng
đồng bằng sông Cửu Long, những nhân tố tác động và mối quan hệ giữa đồng bằng sông
Cửu Long với các tỉnh phía Nam nhất là đối với Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm đưa nông nghiệp nông thôn đồng bằng sông
Cửu Long phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
PGS.TS Đào Công Tiến (Chủ biên): "Kinh tế - xã hội và môi trường vùng ngập
lũ đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 và "Vùng ngập lũ
đồng bằng sông Cửu Long hiện trạng và giải pháp", Nxb Đại học quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2001. Đây là đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước tiến hành điều tra
nghiên cứu về vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trên các lĩnh vực: điều kiện tự
nhiên, tài nguyên và đa dạng sinh học; cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ; hệ thống canh tác
nông - lâm - ngư kết hợp; nước sạch và vệ sinh môi trường; giáo dục và dạy nghề...
Dương Văn Nhã: "Báo cáo tác động của đê bao đến kinh tế - xã hội - môi
trường", chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, An Giang, 2004. Chương trình đã
điều tra và đánh giá những tác động việc thực hiện đê bao chống lũ tại một số địa phương
ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa ra một số nhận định về việc thực hiện đê bao triệt để,
đê bao tháng 8 và không đê bao.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, các đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ, địa phương. Các công trình trên đã nghiên cứu về mùa lũ ở châu thổ sông
Cửu Long và vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long dưới nhiều góc độ khác nhau và đề
cập đến một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, điều tra tổng hợp về kinh tế - xã hội - môi trường - văn hóa - giáo dục
vùng đồng bằng sông Cửu Long, cung cấp số liệu cho công tác quy hoạch phát triển vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
Hai là, đánh giá tác động và đưa ra những khuyến nghị về việc phát triển đồng
bằng sông Cửu Long trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nhất là
trong mối quan hệ với Thành phố Hồ Chí Minh.
Ba là, đánh giá bước đầu ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình đê bao
chống lũ triệt để ở một số địa phương.
Bốn là, đưa ra những kiến nghị nhằm khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội -
môi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trong
điều kiện chung sống với lũ.
Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long
với tư cách là một nguồn lực - nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và trên địa
bàn tỉnh An Giang nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở phát huy hiệu quả của các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc
chủ động chung sống và phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi; nghiên cứu
những lợi thế của mùa nước nổi có thể khai thác để phục vụ cho quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở An Giang; từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước
nổi, nêu lên được những vấn đề đã và đang đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở An Giang và đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích được tác hại và lợi thế của mùa nước nổi đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở An Giang trên cơ sở có tác động của các công trình đã và đang xây
dựng để chung sống trong mùa nước nổi.
- Phân tích, đánh giá những thành công bước đầu của quá trình phát triển kinh tế
- xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi; những tác động của phát triển kinh tế - xã hội
trong mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
- Xác định được những vấn đề đã và đang đặt ra cũng như đề xuất những giải
pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đã và đang đặt ra cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
Phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh An Giang, tuy nhiên trong một chừng mực
nhất định, luận văn có đề cập đến những tác động chung của mùa nước nổi đối với đồng
bằng sông Cửu Long. Thời gian nghiên cứu khi có chủ trương chung sống với lũ từ năm
2000 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu, một số dữ liệu phát triển kinh tế - xã hội ở An
Giang trong mùa nước nổi chỉ có từ 2002 đến nay do nguyên nhân khách quan là những
chương trình đó được triển khai trong thực tiễn từ 2002.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng quan điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết và chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và vùng
đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc các kết quả
nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ những lợi thế tự nhiên trong trong mùa nước nổi có tác động tích cực
đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và
An Giang nói riêng.
- Khái quát những vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội
ở An Giang trong mùa nước nổi.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề được đặt ra để
phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở AN GIANG
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Quan niệm mùa nước nổi
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, được hình
thành từ phù sa của phần hạ lưu vực sông Mêkông. Sông Mêkông dài 4.200 km, có diện
tích lưu vực 795.000 km2, chảy qua Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và
Việt Nam. Phần hạ lưu chảy vào Việt Nam theo hai nhánh chính là sông Tiền và sông
Hậu, chảy ra biển theo 9 cửa là: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ
Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Đình An, cửa Bát Xác và cửa Tranh Đề, nên đoạn sông
Mêkông chảy vào Việt Nam được gọi là sông Cửu Long và đồng bằng sông Cửu Long
cũng được gọi theo tên sông.
Là một vùng đất trù phú, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều lợi thế để phát triển
nhưng đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Hàng năm,
vào khoảng tháng 6 đến tháng 12, nước từ sông chính, theo các nhánh phụ và hệ thống
sông ngòi, kênh rạch chằng chịt của sông Cửu Long chảy vào đồng (người dân thường
gọi là nước tràn đồng), gây ngập trên một diện tích rộng khoảng 1,87 triệu ha. Phần diện
tích ngập này (còn được gọi chung là: vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long) nằm
trong diện tích của 9 tỉnh là: An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên
Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang là một trong ba tỉnh có toàn bộ diện
tích tự nhiên nằm trong vùng ngập lũ.
Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long được chia thành 4 tiểu vùng là: vùng Tứ
giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông Hậu và vùng giữa sông Tiền và
sông Hậu. Vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng Tây sông Hậu có địa hình thấp dần về phía
vịnh Thái Lan, có dạng ngập lũ hở. Vùng Đồng Tháp Mười được bao bọc bởi các vùng
đất cao nên có dạng ngập lũ kín. Vùng giữa sông Tiền và sông Hậu có những vùng đất
cao ven dòng sông, trũng ở giữa, có dạng ngập lũ lòng máng.
Mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long kéo dài khoảng 6 tháng, là hiện
tượng tự nhiên, có chu kỳ thường xuyên hàng năm, không xuất hiện bất thình lình, đột ngột.
Thường bắt đầu từ cuối tháng 6 và kết thúc vào tháng 12 hàng năm, lúc này cũng chính là
mùa mưa ở châu thổ sông Cửu Long. Ta có thể tạm chia mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long
thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu mùa lũ là lúc nước bắt đầu tràn từ thượng nguồn về các
vùng trũng thường tính từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8; giai đoạn cao điểm lũ là giai
đoạn có đỉnh lũ lớn nhất được tính từ đầu tháng 8 đến nửa đầu tháng 10; giai đoạn nước
rút là giai đoạn lũ giảm dần ở các tỉnh đầu nguồn và dồn về các tỉnh hạ lưu.
Hai là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long lên xuống với cường suất nhỏ,
khoảng 5-7cm/ngày và kéo dài trong suốt mùa lũ. Mức độ biến động lũ giữa các năm
không lớn, nguyên nhân chính là do sự điều tiết tự nhiên của Biển Hồ ở Campuchia. Vì
thế mà dạng lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là tương đối ổn định và được điều hòa một
cách tự nhiên, không có hiện tượng cường suất lũ dâng cao nhanh như lũ ở miền Trung
và miền Bắc. Tuy nhiên, do địa hình đồng bằng sông Cửu Long tương đối bằng phẳng
nên chỉ cần đỉnh lũ tăng thêm vài chục cm là mức độ ngập lũ tăng một cách đáng kể. Đối
với đồng bằng sông Cửu Long, việc xác định lũ lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào cường
độ lũ, lưu lượng, tổng lượng mà yếu tố quan trọng là dựa vào mực nước. Theo phân cấp
của Tổng cục Khí tượng Thủy văn, mực nước trên sông Tiền tại Tân Châu thấp hơn 3,83
m là lũ nhỏ, từ 3,83 m đến 4,83 m là lũ trung bình và trên 4,83 m là lũ lớn.
Ba là, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thường là lũ một đỉnh, đạt lớn nhất vào
khoảng từ cuối tháng 9 đến nửa đầu tháng 10. Tháng 8 thường xuất hiện một "đỉnh phụ",
bởi sau đỉnh này, vào đầu tháng 9, lũ hoặc bị hạ thấp đôi chút hoặc nằm ngang hay tăng
chậm hơn so với thời kỳ trước và sau đó. Đôi khi đỉnh lũ này lại cao hơn đỉnh lũ chính
tháng 10 (lũ năm 1978, 1991).
Bốn là, không chỉ chảy theo các nhánh sông chính, lũ còn tràn vào đồng bằng
sông Cửu Long bằng cách tràn qua và lấp đầy các khu trũng thấp dọc theo biên giới (nhất
là ở hai vùng ngập chính Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên). Diện tích ngập lũ
khoảng 2 triệu ha, chiếm khoảng 2,5% diện tích lưu vực sông Mêkông nhưng phải gánh
chịu tổng lượng lũ khoảng 400 tỷ m3 của toàn lưu vực đổ về. Trong đó, lượng theo các sông
chính khoảng 320 tỷ m3, còn lại thì tràn đồng và theo hệ thống kênh rạch đổ ra sông
chính. "Trong các trận lũ lớn, lượng nước lũ theo dòng chính chiếm khoảng 83,2 -
90,86% và tràn đồng khoảng 9,14 - 16,8%. Nước lũ tràn đồng là tác nhân chính gây ngập
lụt cho vùng trũng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên" [47, tr. 25].
Có nhiều nguyên nhân làm tác động đến mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông
Cửu Long như: triều cường của thủy triều biển Đông, mùa mưa hàng năm, lũ thượng
nguồn, chế độ mưa nội đồng, sự điều tiết của Biển Hồ, tác động khai phá thiên nhiên của
con người... Trong đó, tác nhân chính tạo nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập lũ
đồng bằng sông Cửu Long là: do địa hình đặc trưng của lưu vực sông Mêkông và lượng
mưa hàng năm.
Khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, đi qua các nước Trung Quốc,
Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia vào Việt Nam và chảy ra biển Đông. Lưu vực sông
MêKông có diện tích rộng (khoảng 795.000 km2), kéo dài (khoảng 4.200 km), trên một
địa hình phức tạp có nhiều đồi núi cao, bị chia cắt bởi các thung lũng sông và thấp dần về
phía hạ lưu. Lượng mưa bình quân toàn lưu vực khoảng 1.600 mm (có nhiều nơi có
lượng mưa cao như: cao nguyên Boloven - Lào là 3.000 mm, Tây Trường Sơn là 2.000 -
3.000 mm), phân phối không đồng đều giữa các vùng đã tạo nên sự tập trung và tích tụ
nước không đồng đều giữa các vùng làm cho lượng nước đổ về hạ lưu không ồ ạt nhưng
kéo dài trong suốt mùa mưa. Kết hợp với lượng mưa tại chỗ, hai nguyên nhân trên đã tạo
nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là tính chu kỳ,
tốc độ chậm, tràn trên một diện rộng, không đột ngột, nhanh, mạnh như lũ ở miền Trung
và miền Bắc. Nói một cách khác, đối với mùa lũ ở vùng châu thổ sông Cửu Long, con
người có thể dự đoán một cách tương đối chính xác thời điểm lũ về, thời điểm lũ lớn
nhất, thời điểm lũ rút… Tóm lại là nắm được quy luật hoạt động cơ bản nhất của lũ, các
nhân tố còn lại chỉ có tác động làm cho lũ lớn hay nhỏ mà thôi.
Với những đặc trưng riêng có như trên của mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long
ta cần phải có một tên gọi vừa thể hiện được đặc trưng đó, vừa thể hiện được tính lạc
quan của việc chung sống trong mùa lũ mà cư dân vùng sông nước đã quen sống bao đời
nay.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, từ lũ, lụt thường được dùng
để chỉ mùa lũ chung cho các loại hình lũ, chỉ khác nhau là có thêm tên địa danh để phân
biệt như: lũ ở sông Hồng, lũ ở miền Trung, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long…
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì:
Lũ (dt): "Hiện tượng nước dâng cao đầu nguồn, dồn vào dòng chảy, thường là rất
mạnh, trong thời gian tương đối ngắn" [70, tr. 1055].
Lụt (dt): "Hiện tượng nước dâng cao tràn ngập cả một vùng rộng lớn do mưa lũ
gây ra" [70, tr. 1066].
Cả hai khái niệm trên chỉ diễn tả được những tính chất chung nhất của lũ lụt
nhưng không thể hiện được những đặc trưng cơ bản của mùa lũ ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
Theo PGS.TS Trần Thanh Xuân thì:
Thuật ngữ lũ chỉ hiện tượng nước sông dâng cao trong một khoảng
thời gian nhất định, sau đó giảm dần. Trong mùa lũ, những trận mưa liên tiếp
trên lưu vực sông (vùng hứng nước mưa và sinh dòng chảy) làm cho nước
sông cũng từng đợt nối tiếp nhau dâng cao, tạo ra những trận lũ trong sông
suối. Khi lũ lớn, nước lũ tràn qua bờ sông (đê) chảy vào những chỗ trũng và
gây ra ngập lụt trên một diện rộng [69, tr. 7].
Các cách gọi như trên là đúng nhưng chưa đủ, để chỉ lũ ở đồng bằng sông Cửu
Long thì chúng ta phải dùng cả cụm từ là "mùa lũ (lũ) ở châu thổ sông Cửu Long". Đây
là cách gọi đúng và đủ nhưng mang nặng tính bi quan, thiên về những tác hại do lũ gây ra
(lũ, lụt được ông cha ta từ xưa xếp vào một trong những thiên tai nguy hiểm nhất), bao
hàm những ý nghĩa tiêu cực của những thiệt hại về tài sản, tính mạng không bao hàm
được tính lạc quan trong chung sống với lũ.
Vì thế, ta không thể dùng khái niệm lũ, lụt, hay lũ lụt để gọi chung cho mùa lũ ở
đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì:
Mùa nước nổi: Mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long do nước sông Tiền
và Hậu tràn bờ, làm ngập cả châu thổ với các độ sâu khác nhau và thời gian
dài ngắn khác nhau khiến chỉ cấy được một vụ lúa nổi nhưng có tác dụng rửa
mặn, xổ phèn, cả châu thổ có nước ngọt đưa vào một lượng phù sa đáng kể
[70, tr. 1049].
Theo Từ điển