Văn kiện Hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng
định “Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo
dục, đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh, bền
vững” [6, tr.2]. Để thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi nền GD&ĐT nước ta không chỉ mở
rộng qui mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo mà còn phải chú trọng việc nâng cao
chất lượng toàn diện một cách phù hợp.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục THPT được xem là nền tảng và có ý
nghĩa quan trọng đối với nguồn nhân lực của đất nước; bởi lẽ giáo dục THPT là nhằm
giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn
thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp
để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động.
Để giáo dục THPT thực sự có chất lượng cao phải đảm bảo đồng bộ về các điều
kiện như nội dung chương trình, giáo khoa, cơ sở vật chất; đồng thời phải kể đến vai trò
nòng cốt của đội ngũ giáo viên. Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư đã nêu rõ: Tăng
cường xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là
nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực
hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước.
Nhân dân Bến Tre vốn có truyền thống hiếu học và "tôn sư, trọng đạo", giáo viên
luôn được tôn trọng và quý mến. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh luôn được
Đảng bộ đặc biệt quan tâm trên quan điểm "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Nhờ đó,
cùng với sự quan tâm của xã hội và đầu tư của Trung ương, ngành giáo dục Bến Tre có
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự phát triển giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ mới, thực trạng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong
tỉnh còn những hạn chế về năng lực, và không đồng bộ về cơ cấu. Đội ngũ cán bộ quản
lý giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo
dục. Giáo viên THPT vẫn còn thiếu, hẫng hụt nhiều ở các môn kỹ thuật, giáo dục công
dân, giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng và an ninh, tin học. Giáo viên dạy các môn
khối kinh tế, kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp chưa được đào tạo chính quy (số đông
qua đào tạo tại chức). Chưa có giáo viên đạt trình độ sau đại học ở hai khối này. Một số
giáo viên thiếu mẫu mực trong đạo đức, nhân cách, lối sống, chưa thật sự tấm gương tốt
cho học sinh noi theo.
99 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2349 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung
học phổ thông trong đổi mới giáo dục
ở tỉnh Bến Tre hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng
định “Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo
dục, đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh, bền
vững” [6, tr.2]. Để thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi nền GD&ĐT nước ta không chỉ mở
rộng qui mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo mà còn phải chú trọng việc nâng cao
chất lượng toàn diện một cách phù hợp.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục THPT được xem là nền tảng và có ý
nghĩa quan trọng đối với nguồn nhân lực của đất nước; bởi lẽ giáo dục THPT là nhằm
giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn
thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp
để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động.
Để giáo dục THPT thực sự có chất lượng cao phải đảm bảo đồng bộ về các điều
kiện như nội dung chương trình, giáo khoa, cơ sở vật chất; đồng thời phải kể đến vai trò
nòng cốt của đội ngũ giáo viên. Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư đã nêu rõ: Tăng
cường xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là
nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực
hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước.
Nhân dân Bến Tre vốn có truyền thống hiếu học và "tôn sư, trọng đạo", giáo viên
luôn được tôn trọng và quý mến. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh luôn được
Đảng bộ đặc biệt quan tâm trên quan điểm "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Nhờ đó,
cùng với sự quan tâm của xã hội và đầu tư của Trung ương, ngành giáo dục Bến Tre có
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự phát triển giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ mới, thực trạng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong
tỉnh còn những hạn chế về năng lực, và không đồng bộ về cơ cấu. Đội ngũ cán bộ quản
lý giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo
dục. Giáo viên THPT vẫn còn thiếu, hẫng hụt nhiều ở các môn kỹ thuật, giáo dục công
dân, giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng và an ninh, tin học. Giáo viên dạy các môn
khối kinh tế, kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp chưa được đào tạo chính quy (số đông
qua đào tạo tại chức). Chưa có giáo viên đạt trình độ sau đại học ở hai khối này. Một số
giáo viên thiếu mẫu mực trong đạo đức, nhân cách, lối sống, chưa thật sự tấm gương tốt
cho học sinh noi theo.
Trước những yêu cầu của đổi mới giáo dục, đội ngũ giáo viên THPT công lập
tỉnh Bến Tre còn một số bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu, điều này đã hạn chế
đến việc cải thiện chất lượng giáo dục, nhất là trong giai đoạn hiện nay cả nước đang
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và phân ban đại trà kể từ năm học 2006-2007.
Do vậy, vấn đề phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông công lập
tỉnh Bến Tre trong quá trình đổi mới giáo dục hiện nay trở thành yêu cầu bức thiết và
quan trọng. Là người trực tiếp làm công tác tuyên giáo, trong đó có công tác khoa giáo
gắn liền với giáo dục đào tạo ở tỉnh Bến Tre, với lòng thiết tha mong muốn góp phần
nhỏ bé vào việc phát huy vai trò tiềm năng, tính sáng tạo của đội ngũ giáo viên trong
quá trình đổi mới giáo dục của tỉnh Bến Tre phát triển cùng với cả nước.
Do vậy, tôi chọn đề tài: “Pht huy vai trị của đội ngũ giáo viên trung học phổ
thông trong đổi mới giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Trong thời gian gần đây đã có một số công trình có liên quan tới đề tài. Cụ thể là:
- “Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát triển tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài” mã số KX-07-18 (1996) của PGS.TS Nguyễn
Trọng Bảo chủ biên với nhiều vấn đề được phân tích, trong đó có các vấn đề đóng
góp vào đổi mới giáo dục, phát triển đất nước.
- “Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc
gia”, của Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính Trị quốc gia 2002, là tập hợp
những kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến lược
phát triển giáo dục.
Những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan về vai trò của đội ngũ giáo
viên trong giai đoạn hiện nay như:
- PGS.TS Phan Thanh Khôi (2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng
từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Trong đó có nội dung đề cập đến giáo
dục và đào tạo của Đảng.
- Phạm Thanh Sơn (2001), Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin trong
các trường Đại học nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học. Luận án chủ yếu bàn về
đội ngũ giáo viên Mác-Lênin và vai trò của đội ngũ này trong các trường đại học.
- Đỗ Tuyết Bảo (2001), Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học tại thành phố
Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học. Nghiên cứu vai
trò, ý nghĩa giáo dục đối vơí sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh trung
học cơ sở trong điều kiện mới.
- Dương Thị Thúy Nga (2006), Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học phổ thông tỉnh Thái Bình hiện
nay, Luận văn thạc sĩ CNXHKH. Đã trình bày và lý giải về những đổi mới nâng cao vai
trò của đội ngũ giáo viên trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học
phổ thông.
Từ hướng tiếp cận những động lực tích cực của con người trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta, như:
- PGS.TS Nguyễn Đức Bách: “Mấy vấn đề cần đổi mới, tạo động lực và điều
kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ”. Tạp chí thông tin công tác khoa giáo,
tháng 4-1995.
- GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn: “Chất lượng giáo dục phổ thông-một số vấn đề cấp
thiết”. Văn nghệ, 4/10/2003 và 11/10/2003.
- GS. Hoàng Tụy: “Giáo dục đang đi về đâu?". Văn nghệ, 27/12/2003
Đã tập trung phân tích các nhân tố có ảnh hưởng tới phát huy tính tích cực của
đội ngũ giáo viên trong việc giáo dục đào tạo.
Như vậy, đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
cơ bản và hệ thống vấn đề vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi
mới giáo dục trên địa bàn một tỉnh, trong đó có tỉnh Bến Tre. Đây là lý do tác giả chọn
đề tài: “Phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới
giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng và làm rõ vai trò đội ngũ giáo viên
THPT ở tỉnh Bến Tre hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của đội ngũ giáo viên THPT góp phần đảm bảo chất lượng và bảo đảm quá trình đổi
mới giáo dục THPT của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ đổi mới giáo dục ở nước ta và vai trò của đội ngũ giáo viên trung học
phổ thông trong quá trình đổi mới giáo dục.
+ Phân tích thực trạng việc phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên THPT trong
đổi mới giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ giáo
viên THPT tỉnh Bến Tre đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới giáo dục của tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu đội ngũ giáo viên THPT tỉnh Bến Tre dưới góc độ
chính trị - xã hội thể hiện trong quá trình đổi mới.
- Phạm vi: Đội ngũ giáo viên THPT trong quá trình đổi mới giáo dục (từ khi có
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đến nay) thuộc các trường trung học phổ thông ở
tỉnh Bến Tre.
5. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà
nước về vai trò của đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
lôgíc và lịch sử, thống kê, điều tra xã hội học, gắn lý luận với thực tiễn vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ quan hệ giữa đội ngũ giáo viên và đổi mới giáo dục ở trung học phổ
thông trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên trong quá
trình đổi mới giáo dục ở các trường trung học phổ thông trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể góp phần làm sáng tỏ và cụ thể thêm vấn đề
lý luận về vai trò của đội ngũ giáo viên ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bến Tre
trong đổi mới GD&ĐT hiện nay.
- Luận văn góp thêm tài liệu tham khảo cho ngành giáo dục đào tạo mà trước hết
là giáo dục đào tạo tỉnh Bến Tre.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA
VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA
1.1.1. Tính tất yếu của đổi mới giáo dục
Một là, điều làm xã hội lo lắng là chất lượng giáo dục và đào tạo của nước ta đang
có những yếu kém ở mọi cấp học. Thiếu sót bất cập nhất của giáo dục là chất lượng và
hiệu quả thấp. Nó bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa nhu cầu học vấn ngày càng tăng của nhân
dân với khả năng đáp ứng còn hạn chế của hệ thống giáo dục; giữa nhu cầu phát triển
giáo dục với khả năng đáp ứng của nền kinh tế; giữa số lượng, chất lượng, trình độ được
đào tạo của học sinh với khả năng thu hút, sử dụng của thị trường lao động xã hội; giữa
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục lạc hậu với sự phát triển nhanh
chóng của nền sản xuất xã hội, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin,
giữa hệ thống giáo dục chính quy và hệ thống giáo dục không chính quy, hay nói cách
khác là giữa giáo dục, mang tính chuẩn bị tiềm năng lâu dài với giáo dục mang tính chất
phổ cập. So với mục tiêu mà Đại hội X của Đảng đã đề ra là đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn với phát triển tri thức để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và sự cạnh tranh quốc tế trong đó có cạnh
tranh về giáo dục và nguồn nhân lực trong tiến trình toàn cầu hoá, thì tình trạng bất cập
đó càng lớn hơn và gay gắt hơn nhiều.
Hai là, một bất cập khác là không ít giáo viên không đủ sức đề kháng với tiêu cực
của kinh tế thị trường. Tệ mua bằng, bán điểm đã trở thành tệ nạn. Tiêu cực trong dạy
thêm học thêm, coi mục tiêu lợi nhuận là hàng đầu trong tổ chức hoạt động giáo dục
xuất hiện ở nhiều nơi gây bức xúc trong dư luận, làm giảm uy tín và vị thế của người
thầy, của người giáo viên trong xã hội. Môi trường sư phạm bị xúc phạm do đồng tiền
chi phối các mối quan hệ vốn rất được tôn kính. Trong khi đó, những yếu tố tích cực
của kinh tế thị trường lại không được nhìn nhận, đánh giá đúng và tìm cách phát huy
như sự minh bạch trong thu chi... Các khái niệm "thị trường", "xã hội hoá" đã không
được nhận thức đúng bản chất, không được minh bạch, nên đã bị lạm dụng, tạo nên hình
ảnh xấu về các lĩnh vực này trong con mắt của nhân dân và cả xã hội, làm ảnh hưởng rất
lớn đến việc triển khai các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước cũng như của
ngành giáo dục và đào tạo.
Ba là, đường lối phát triển giáo dục và đào tạo là đúng nhưng chưa được cụ thể, rõ
ràng, chưa có giải pháp thực hiện và còn bị lúng túng trong cơ chế quản lý, thiếu tính
chuyên nghiệp, đã gây nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện các chủ
trương chính sách trong thực tiễn. Quan điểm "Giáo dục là quốc sách hàng đầu" chưa
được quán triệt đầy đủ và thực hiện cụ thể. Nhiều quan điểm quản lý chưa có cơ sở lý
luận và phù hợp với điều kiện thực tế, chưa có một đề án, kế hoạch tổng thể; chưa có đủ
điều kiện thực hiện cả con người, vật chất và sự đồng thuận xã hội.
Bốn là, sự không hoàn thiện của cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Về mặt văn
bản, đã từng có một mô hình cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân khá cụ thể, rõ nét. Tuy
nhiên, việc triển khai mô hình này trong thực tiễn mấy chục năm qua đã bộc lộ những
bất cập với yêu cầu của thực tiễn, gây nên bất hợp lý trong giải quyết nguồn nhân lực,
cả về định tính và định lượng. Cho đến nay chưa giải quyết được vấn đề phân luồng
THCS và THPT, vẫn chưa phân biệt hai luồng đào tạo và thực hành, thực tiễn "thầy -
thợ", "thừa - thiếu" không có cách giải quyết; chưa có sự thống nhất trong quản lý các
trường nghề, chưa thật sự hoàn thiện phân cấp mạng lưới các cơ sở đào tạo nhân lực từ
Trung ương đến địa phương. Chính sự không rõ ràng trong khái niệm này đã dẫn đến
chồng chéo trong quản lý. Việc phân cấp mặc dù đã được khẳng định nhưng còn chậm
vào đời sống thực tiễn.
Năm là, sự bất cập về lý luận khoa học giáo dục, lý luận quản lý giáo dục. Đúng ra
lý luận của hai lĩnh vực này phải đi trước thực tiễn một bước, làm sáng tỏ cho thực tiễn.
Nhưng trong thực tế, lý luận của hai lĩnh vực này ở nước ta thời gian qua còn chậm
chạp. Không khí tranh luận kém sôi nổi, thiếu thẳng thắn trong học thuật đã kéo theo sự
phân tâm của xã hội trước một số chủ trương lớn như: vấn đề học phí, việc đổi mới
chương trình sách giáo khoa, phân ban ở cấp học phổ thông; việc cải tiến hình thức tổ
chức đào tạo và mạng lưới trường lớp; việc hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc
dân; vấn đề xã hội hoá giáo dục... phát triển giáo dục trong bối cảnh xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa làm tăng vốn con người, vốn tổ chức,
vốn xã hội ở nước ta, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy đất
nước đi vào con đường hội nhập. Những lý thuyết thực tiễn của các vấn đề trên là rất
quan trọng trong tiến trình đổi mới giáo dục, song ở nước ta chưa bàn một cách thấu
đáo, trên các diễn đàn khoa học. Thực tế này đòi hỏi giáo dục phải có những bước đột
phá trong quá trình đổi mới để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội cũng như yêu cầu
đổi mới giáo dục gắn với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, đất nước đổi mới đồng bộ, toàn diện, sâu sắc ngành giáo dục cũng phải
đổi mới. Không đổi mới, giáo dục không thể phát triển, không đáp ứng yêu cầu đổi mới
của đất nước.
1.1.2. Nội dung đổi mới
1.1.2.1. Đổi mới quy mô và loại hình đào tạo
- Quy mô giáo dục không ngừng được nâng lên, mạng lưới trường lớp được mở
rộng. Năm 2000, Nhà nước chỉ cho giáo dục là 18.386 tỉ đồng chiếm 4.2% tổng sản
phẩm nội địa. Năm 2006, chi cho giáo dục 54.798 tỉ đồng chiếm 5.62% tổng sản phẩm
nội địa. Như vậy, chỉ sáu năm, ngân sách cho giáo dục tăng gấp 3 lần. Tỉ lệ chi cho giáo
dục của chúng ta từ tổng thu nhập nội địa là 5.62% đ l loại cao nhất thế giới (tỉ lệ chi
cho gio dục của một số nước như: Inđônêxia 0.9%, Philipines 2.7%, Nhật Bản 3.5%,
Thái Lan 3.9%, Đức 4.3%, Hàn Quốc 4.4%, Mỹ 5.29%, Pháp 5.7% và Malaysia 5.8%).
Các mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đ được thực hiện, công tác phổ
cập giáo dục trung học cơ sở cơ bản được đẩy mạnh.
Đầu năm học 2006 - 2007, tổng số học sinh, sinh viên trong cả nước là gần
21.574.172, giảm khoảng 0,33% so với năm học 2005-2006.Trong đó, học sinh mầm
non: gần 3.147.252; học sinh phổ thông: gần 9.329.737; học sinh trung học chuyên
nghiệp: 515.670; sinh viên đại học cao đẳng: gần 1,52 triệu; học sinh học nghề: gần
1.522.000 và học sinh học tập theo phương thức không chính quy (gồm học sinh xóa
mù chữ, bổ túc văn hóa, giáo dục và đào tạo từ xa: hơn 453.540).
So với năm học 2005-2006 số học sinh trung học phổ thông và số sinh viên đại
học, cao đẳng tăng gấp khoảng 11,5% lần. Tính bình qun trung học cơ sở giảm 3,72%
năm, trung học phổ thông tăng 4,33% năm. Xu thế đi học đúng độ tuổi tăng lên: tỉ lệ trẻ
5 tuổi được học mẫu giáo lớn là 81%; số trẻ trong độ tuổi tiểu học đến trường chiếm tỉ
lệ cao từ đó góp phần ổn định quy mô giáo dục tiểu học.
Cùng với việc tăng quy mô, mạng lưới trường lớp và các loại hình đào tạo tiếp tục
được củng cố, phát triển rộng khắp trong cả nước kể cả vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải
đảo và vùng dân tộc góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em nhân dân.
Hiện nay, cả nước có 39.695 trường học, bao gồm 11.509 trường Mầm non mẫu giáo;
14.839 trường tiểu học, 10.401 trường trung học cơ sở, 2.355 trường trung học phổ
thông, 269 trường trung học chuyên nghiệp, 322 trường Cao đẳng và đại học.
So với năm học 2005-2006, ở tiểu học và trung học cơ sở đ cĩ thm 277 trường; ở
trung học phổ thông có thêm 87 trường; đại học và cao đẳng có thêm 67 trường (trong
đó có thêm 54 trường đại học, cao đẳng công lập; 13 trường đại học, cao đẳng ngoài
công lập). Cùng với việc củng cố, phát triển trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú,
các địa phương đ quan tm bố trí, sắp xếp hệ thống trường lớp tiểu học và trung học cơ
sở ở vùng đồng bào dân tộc, tạo điều kiện cho trẻ em đến trường. Mạng lưới các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp được sắp xếp hợp lý v tiếp tục được củng
cố, phát triển các trường đại học trọng điểm của các khối: sư phạm, công nghệ, nông
nghiệp, kinh tế được tăng cường. Các vùng khó khăn như Tây Bắc, Nam trung bộ, đặc
biệt Chính phủ đ chỉ đạo cho Bộ giáo dục và Đào tạo lưu tâm việc đẩy mạnh phát triển
các trường đại học, cao đẳng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo nguồn nhân lực tại
chỗ cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề và trung
tâm giáo dục thường xuyên phát triển rộng khắp. Hệ thống các trường sư phạm từ trung
ương đến địa phương tiếp tục được củng cố, nâng cao chất lượng; góp phần tăng cường
điều kiện tạo thuận lợi trong việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng chuẩn hóa
đội ngũ, đáp ứng tốt nhiều hơn nữa các yêu cầu về phổ cập trung học cơ sở, triển khai
chương trình gio dục phổ thơng mới trong thời gian tới.
Đến nay phổ cập giáo dục tiểu học đạt 100% của 64 tỉnh, thành cả nước, 98,19%
dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ. Bảo đảm tỉ lệ 98% trẻ em 14 tuổi học hết tiểu học.
Phát huy thành quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện Nghị quyết
số 41/2000/QH 10 ngày 9/12/2000 của Quốc Hội, Chỉ thị số 61/CTTU Của Bộ Chính trị
và Nghị định số 88/2001/NĐ-CĐ ngày 21/11/2001 của Chính Phủ, các địa phương
trong cả nước đều tích cực triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục
trung học cơ sở. Đến tháng 4/2008 đ cĩ 42/64 tỉnh, thnh phố được công nhận đạt Chuẩn
Quốc gia phổ cập trung học cơ sở.
Việc học tập để cập nhật tri thức, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, học vi tính, ngoại
ngữ… Đ trở thnh nhu cầu thiết thực trong thanh nin ở nhiều địa phương. Các trung tâm
Giáo dục thường xuyên được duy trì; ngnh gio dục đang chỉ đạo và các địa phương
đang tổ chức thực hiện xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng ở nông thôn, nhằm
tạo điều kiện, khả năng cung ứng cơ hội học tập cho nông dân, trước hết và phần lớn là
thanh niên nông thôn, bước đầu đ đáp ứng được yêu cầu và có nhiều kết quả thiết thực.
Đây là những nhân tố mới, tích cực cần có chính sách cơ chế quan tâm duy trì, pht triển
nhằm xy dựng mặt x hội học tập.
1.1.2.2. Đổi mới đầu tư đào tạo đội ngũ giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật
- Trong 5 năm qua, ngành giáo dục-đào tạo đ cng với cc địa phương tập trung
xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm đồng bộ hoá về số lượng, hợp lý về cơ cấu vừa
tăng qui mô vừa nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Hiện nay tổng số giáo viên, giảng viên toàn ngành trên 1.012.468, tăng 1,14% so
năm học 2005-2006. Trong đó, số giáo viên mầm non và phổ thông là 946.410 tăng
3,73%. Số giáo viên Trung học chuyên nghiệp là 14.500 người, tăng 2,14%. Số giảng
viên đại học, cao đẳng