Đề tài Phương tiện thông tin đại chúng

Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữtruy ền thông đại chúng được sử dụng trong “Lời nói đầu của Hiến chương Liên hiệp quốc vềvăn hoá, khoa học và Giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữnày đã phổbiến rất rộng rãi các phương tiện truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sựphát triển của từng lĩnh vực của xã hội.[3] Hệthống các phương tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là hệthống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trởthành m ột thành tốrất quan trọng của xã hội. Hệthống này vừa là động lực, vừa là công cụtrong hoạt động tổchức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội. Trong hoạt động của mình, hệthống truyền thông đại chúng đã thểhiện vai trò cũng nhưkhảnăng tạo sựtương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trởthành một thiết chếxã hội, nó được coi là tác nhân cơbản làm hình thành các liên kết xã hội. Hiện nay, truyền thông đại chúng có được sựhỗtrợrất lớn của các phương tiện Khoa học kĩthuật. Công nghệphát triển ởtrình độcao đã đưa hệ thống này trởthành một trong những hệthống quan trọng nhất của xã hội hiện đại. Thông tin của từng quốc gia trởthành đối tượng của báo chí mọi quốc gia, không gian thông tin của nhân loại đang được thu nhỏlại. Sựquốc tếhoá truyền thông đại chúng đang đặt cảthếgiới vào tình huống mà trong đó các hàng rào thông tin “cứng” bịphá vỡ. Điều này là cơsởthực tiễn cũng nhưlà điều kiện thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học vềtruy ền thông đại chúng.

pdf153 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 4608 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương tiện thông tin đại chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: “Phương tiện thông tin đại chúng” 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài 4 2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu 9 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 14 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 14 5. Đối tượng, khách thể và phạm vi 16 6. Phương pháp nghiên cứu 16 7. Giả thuyết nghiên cứu 18 8. Kết cấu của luận văn 18 PHẦN NỘI DUNG Chương I: Những vấn đề lí luận và phương pháp nghiên cứu hiệu quả của báo chí đối với công chúng. 20 2 1.1. Cơ sở lý luận 20 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về truyền thông đại chúng 20 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng 23 1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về truyền thông đại chúng 26 1.1.4. Lý thuyết của M.Weber về đối tượng nghiên cứu của truyền thông đại chúng 28 1.1.5. Mô hình của H.Lasswell và C.Shannon về truyền thông đại chúng 31 1.2. Các khái niệm 32 1.2.1. Truyền thông 32 1.2.2. Truyền thông đại chúng 33 1.2.3. Hiệu quả truyền thông đại chúng 35 1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng 35 3 1.2.5. Công chúng sinh viên báo chí 37 1.3. Địa điểm khảo sát và một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 37 1.3.1. Vài nét về địa điểm khảo sát 37 1.3.2. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 39 Chương II: Cách thức, mức độ và những vấn đề được quan tâm trong giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên báo chí. 42 2.1. Các phương tiện thông tin đại chúng và cách thức tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí. 42 2.1.1. Các phương tiện truyền thông đại chúng 42 2.1.1.1. Báo in 42 2.1.1.2. Đài phát thanh - truyền hình 43 2.1.1.3. Báo trực tuyến 46 2.1.2. Địa điểm và cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí của công chúng Sinh viên báo chí. 48 4 2.1.2.1. Địa điểm và cách thức đọc báo in 49 2.2.2.2. Địa điểm và cách thức nghe đài phát thanh 53 2.2.2.3. Địa điểm và cách thức xem truyền hình 55 2.1.2.4. Địa điểm và cách thức truy cập Interner 58 2.2. Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí 61 2.3. Những vấn đề được quan tâm của công chúng công sinh viên báo chí 70 2.3.1. Những nội dung thông tin được quan tâm 69 2.3.1.1. Những thông tin thời sự, chính trị - xã hội 72 2.3.1.2. Những thông tin văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí 77 2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí được quan tâm 79 2.3.2.1. Tin 5 2.3.2.2. Phóng sự 2.3.2.3. Phỏng vấn, tọa đàm 2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của công chúng sinh viên báo chí 82 Chương III: Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng liên quan đến nghề báo và việc sử dụng thông điệp từ báo chí của công chúng sinh viên báo chí. 89 3.1. Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng 3.1.1. Tạp chí: Người làm báo 91 3.1.2. Báo: Nhà báo & công luận 93 3.1.3. Trang web: nghebao.com (Nghề báo – Thư ký của thời đại ) 95 3.2. Vấn đề sử dụng thông điệp báo chí vào việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí 98 3.2.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến 99 6 việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí 3.2.2. Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí 100 PHẦN KẾT LUẬN 1. Những kết luận cơ bản 106 2. Một số kiến nghị 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 PHẦN PHỤ LỤC 7 8 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ truyền thông đại chúng được sử dụng trong “Lời nói đầu của Hiến chương Liên hiệp quốc về văn hoá, khoa học và Giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữ này đã phổ biến rất rộng rãi các phương tiện truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của từng lĩnh vực của xã hội.[3] Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là hệ thống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong hoạt động tổ chức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội. Trong hoạt động của mình, hệ thống truyền thông đại chúng đã thể hiện vai trò cũng như khả năng tạo sự tương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trở thành một thiết chế xã hội, nó được coi là tác nhân cơ bản làm hình thành các liên kết xã hội. Hiện nay, truyền thông đại chúng có được sự hỗ trợ rất lớn của các phương tiện Khoa học kĩ thuật. Công nghệ phát triển ở trình độ cao đã đưa hệ thống này trở thành một trong những hệ thống quan trọng nhất của xã hội hiện đại. Thông tin của từng quốc gia trở thành đối tượng của báo chí mọi quốc gia, không gian thông tin của nhân loại đang được thu nhỏ lại. Sự quốc tế hoá truyền thông đại chúng đang đặt cả thế giới vào tình huống mà trong đó các hàng rào thông tin “cứng” bị phá vỡ. Điều này là cơ sở thực tiễn cũng như là điều kiện thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng. Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới theo xu hướng hội nhập và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của 9 Nhà nước nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự phát triển rõ rệt. Hoạt động truyền thông đại chúng đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đường lối đổi mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá các mặt của đời sống xã hội; Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ trong hoạt động thông tin báo chí ở nước ta. Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn chế được hình thức thông tin một chiều đơn điệu và ngày càng thể hiện được vai trò là cầu nối giữa Đảng và Dân. Thông tin hai chiều được thực hiện trên báo chí: một mặt tuyên truyền, giải thích đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với công chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó như : Báo in, báo ảnh, phát thanh, truyền hình, internet …Đó là các bộ phận, các kênh thông tin cơ bản nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vận động của thông tin đại chúng. Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế mạnh và những hạn chế riêng , chẳng hạn như: báo in có khả năng lưu trữ lâu, đồng thời đi sâu phân tích chi tiết các sự kiện hiện tượng, công chúng của loại hình báo chí này có thể tiếp nhận thông tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn chế cơ bản của loại hình báo chí này là khó có khả năng phát hành rộng rãi tới công chúng ở vùng sâu, vùng xa…Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là nhanh, đồng thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhận thông tin đồng thời với thời điểm diễn ra sự kiện. Nhưng hạn chế của nó là tính thoảng qua, khả năng lưu trữ kém …đòi hỏi công chúng tiếp nhận thông tin từ loại hình 10 báo chí này phải hết sức tập trung, quá trình thông tin bị phụ thuộc vào làn sóng, thời tiết… Ở nước ta các loại hình thông tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát triển, chúng không những không loại trừ nhau, mà ngược lại còn bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Hiện nay, cả nước ta có khoảng 14.000 nhà báo chuyên nghiệp đang hoạt động. Ngoài ra còn có hàng ngàn cộng tác viên, thông tin viên và một đội ngũ đông đảo đang hoạt động trong lĩnh vực thông tin xã hội. Đó là cán bộ ở các phòng thông tin văn hoá, các đài truyền thanh cấp huyện, xã… Cả nước hiện có 553 cơ quan báo in, trong đó có 157 báo 396 tạp chí và khoảng hơn 1000 bản tin. Hàng năm, xuất bản hơn 550 triệu bản báo. 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 470 trong số 512 huyện, 7000 xã trong tổng số hơn 10.359 xã được đọc báo trong ngày. Tính bình quân mỗi năm 1 người là 7,5 bản báo. 70% lượng báo chí tập trung ở thị xã, thành phố. Có 1 đài truyền hình, 1 đài phát thanh quốc gia và 4 đài truyền hình khu vực ở Huế, Đà Nẵng , Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh. Một đài truyền hình kĩ thuật số VTC của bộ bưu chính viễn thông. Ngoài ra 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có đài Phát thanh - Truyền hình. Riêng đối với loại hình phát thanh, ngoài đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam và các đài phát thanh cấp tỉnh còn có hệ thống đài truyền thanh của gần 520 huyện và hơn 10.000 xã. Đây là loại hình báo chí có tính ổn định và phân bố đồng đều nhất trong cả nước. Cả sóng phát thanh và truyền hình quốc gia đều được truyền qua vệ tinh. Theo con số thống kê chưa đầy đủ cả nước hiện có hơn 10 triệu máy thu 11 hình, với gần 85% số hộ gia đình xem được truyền hình. Sóng phát thanh hiện đã tới 5 châu lục và hơn 90% lãnh thổ nước ta. Báo chí trực tuyến (qua mạng Internet) là một là một loại hình báo chí mới ra đời so với báo chí truyền thống; Nhưng được sự hỗ trợ mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đã khẳng định được vai trò cũng như sức mạnh vượt trội của mình. Ở nước ta, tờ báo trực tuyến đầu tiên chính thức ra đời năm 2000. Qua 7 năm phát triển, đến nay cả nước ta đã có khoảng hơn 2.500 trang Web đang hoạt động và hầu hết các tờ báo đều có báo trực tuyến. Theo đánh giá của PGS.TS. Trần Đình Hoan nguyên Uỷ viên bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng thì : “ Báo điện tử đang góp phần tích cực vào sự lớn mạnh của đất nước”( Nguồn : Viêt Nam Nét ngày 20/05/2003). Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta hiện nay được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lí của Nhà nước. Chính vì vậy, các hoạt động xuất bản và phát hành ấn phẩm của hệ thống này đều được dựa trên những cơ sở thống nhất như : - Dấu hiệu về nghề nghiệp ( Giáo dục thời đại, Quân đôi nhân dân, Người làm báo ...) - Dấu hiệu về lứa tuổi ( Nhi đồng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Người cao tuổi…) - Dấu hiệu về lãnh thổ ( Hà Nội mới, Sài gòn giải phóng, Hà tây, Hà Nam…) - Dấu hiệu về xã hội (Đại đoàn kết, Lao động …)1) 12 - Dấu hiệu về giới ( Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Nữ sinh …) - Dấu hiệu về nhu cầu thị hiếu ( Tạp chí Thời trang, Báo Văn Nghệ, tạp chí Văn nghệ… )* Tất cả các dấu hiệu trên là cơ sở để hoạt động xuất bản và phát hành đối với tất cả các loại hình báo chí, kể cả báo chí Trung ương và địa phương. Tất cả các đấu hiệu trên đều rất xác thực và gần gũi với đời sống xã hội, do đó các đối tượng công chúng đều có thể tiếp nhận những thông tin phù hợp từ hệ thống truyền thông đại chúng. Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu khảo sát và đánh giá về những ảnh hưởng và tác động của truyền thông đại chúng đối với các tầng lớp công chúng ở nước ta là có tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Gần đây, một số tác giả cũng đã đưa vấn đề nhận diện công chúng truyền thông đại chúng trong đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng những công trình xem xét dưới góc độ Xã hội học và Báo chí theo hướng nghiên cứu hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng nói chung và đối với công chúng là sinh viên nói riêng. Sinh viên là nhóm dân số xã hội tương đối lớn trong hệ thống cơ cấu xã hội. Nhóm sinh viên được xác định bởi những đặc điểm rõ rệt : - Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24 * Dẫn theo Mai Quỳnh Nam “Công chúng Thanh niên đô thị và báo chí - nghiên cứu trường hợp thành phố Hải Phòng năm 2002.” Mai Văn Hai – Mai Quỳnh Nam: Chương IX :Đời sống văn hoá tinh thần và hoạt động truyền thông đại chúng.Báo cáo Xã hội năm 2000. Trịnh Duy Luân chủ biên, Viện Xã hội học. 13 - Có trình độ học vấn tương đối cao - Đang học nghề, trong một tổ chức trường học . Có thể nói sinh viên là bộ phận lao động trí thức trong lực lượng lao động của xã hội. Họ là nguồn nhân lực chủ yếu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng sinh viên sống và học tập tập trung tại các đô thị, do đó các hoạt động giao tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng cũng diễn ra trong môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị phát triển, vì vậy có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp nhận nguồn thông tin đa dạng phong phú. Đối với công chúng truyền thông là sinh viên, thì nhóm công chúng là sinh viên báo chí cần được lưu ý và quan tâm. Bởi lẽ, trước hết, họ là lực lượng lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Họ là những trí thức, sẽ là những chủ nhân của đất nước trong tương lai. Và đặc biệt sau khi ra trường họ sẽ trở thành những nhà báo - những người sẽ trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Chính vì vậy, sự tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình học tập, cũng như tác nghiệp của họ sau này. Nghiên cứu về nhóm công chúng sinh viên báo chí trong mối quan hệ với hệ thống báo chí càng có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Với ý nghĩa trên, luận văn của chúng tôi chọn sinh viên của Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1(Trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt Nam) tại Hà Nam để khảo sát hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí. 2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu 14 Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng nằm trong hệ thống tri thức của xã hội học, đây là một hoạt động khoa học tạo được sự quan tâm của cả Báo chí học và Xã hội học truyền thông đại chúng. Trong lịch sử nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đại chúng với xã hội, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm nhìn nhận khác nhau tuỳ thuộc vào sự biến động của mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định . Năm 1905, việc phát minh ra vô tuyến điện và theo đó là sự ra đời của đài phát thanh – đây là một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển các phương tiện truyền thông đại chúng. Đài phát thanh ra đời với những ưu điểm vượt trội về tốc độ thông tin cũng như sự quảng đại trong việc truyền bá nên đã được công chúng hào hứng, say sưa tiếp nhận. Các nhà nghiên cứu xã hội học thời kỳ này cho rằng các phương tiện truyền thông đại chúng thực sự có một sức mạnh vạn năng. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là quan điểm của trường phái Frankfurt, họ cho rằng với khả năng của đài phát thanh sẽ rất dễ thuyết phục công chúng, khiến họ phải tin tưởng và phục tùng theo các thông điệp và mục đích của nó được truyền trên sóng phát thanh. Nhận xét này được đưa ra từ sự quan sát số lượng công chúng bị tác động và sự ảnh hưởng của nội dung thông điệp truyền tải, chưa dựa trên những nghiên cứu thực nghiệm đối với công chúng truyền thông. Năm 1944, P.Larsfeld cùng các cộng sự đã thông qua nghiên cứu thực nghiệm đối với cử tri về quyết định bầu cử chỉ ra rằng, các chiến dịch vận động tranh cử thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng hầu như chỉ làm tăng thêm sự tin tưởng vào những ý định sẵn có của cử tri, thực tế ít làm thay đổi quyết định của họ[403, 404]. Năm 1960, J.Klapper trong cuốn “Tác động của truyền thông đại chúng” cho rằng “ truyền thông đại chúng chỉ là yếu tố tác động, bổ sung (dù là 15 tác động rất mạnh) cùng với những yếu tố trung gian khác chứ không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến sự thay đổi hành vi của công chúng”[40,144]. Nói cách khác, truyền thông đại chúng không phải là nguyên nhân cần và đủ, không phải là tác nhân cơ bản đẫn đến sự thay đổi thái độ ứng xử của công chúng. Khi công nghệ truyền hình ra đời đã đánh đấu một bước tiến dài trong sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng. Sức mạnh của truyền hình được khẳng định bởi nó sử dụng tổng hợp sức mạnh của cả các loại hình báo in, phát thanh và hình ảnh. Khoảng những thập niên 60 – 70 của thế kỷ XX, truyền hình phát triển mạnh mẽ và phổ biến rộng rãi, những quan điểm nghi ngờ về sức mạnh của truyền thông đại chúng được đặt ra xem xét lại. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định sức mạnh cũng như sự tác động to lớn của loại hình này. Mạng Internet ra đời đã thực sự làm thay đổi quan niệm về các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống. Những hạn chế về khả năng lưu trữ thông tin , thời lượng, sự đơn điệu, sự tương tác … của các phương tiện truyền thống đã được giải quyết. Mạng Internet đã khẳng định được vai trò cũng như sự tác động to lớn của nó đối với xã hội công chúng. Những thập niên cuối của thế kỷ XX, công nghệ mạng Internet đã phát triển mạnh mẽ và phổ biến ở hầu hết các quốc gia, nó tạo điều kiện để thế giới xích lại gần nhau hơn. Có thể nói rằng, Internet là tác nhân cơ bản để thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tăng cường khả năng giao lưu, hội nhập, hợp tác, trên mọi lĩnh vực giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Sự ra đời của mạng Internet với những ưu điểm vượt trội và phạm vi tác động của nó đã tạo ra không gian rộng lớn hơn cũng như nhiều hướng nghiên cứu mới về hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng xã hội. Theo các tài liệu từ tiểu ban nghiên cứu truyền thông đại chúng của Đại hội Xã hội học thế giới lần thứ XV, tổ chức năm 2002 cho thấy hướng nghiên cứu hiệu 16 quả truyền thông đại chúng của mạng Internet được đặc biệt chú trọng và phạm vi nghiên cứu không chỉ trong mỗi quốc gia mà mở rộng ra toàn thế giới. Đến cuối thế kỷ XX, J.Habermas đưa ra khái niệm “không gian cộng đồng” trong đó các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò trung gian liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, cũng như nội bộ xã hội xã hội dân sự và các thiết chế Nhà nước. Đồng thời xác định truyền thông đại chúng không phải là lãnh địa riêng của các nhà truyền thông hay các chuyên gia truyền thông, nó là diễn đàn chung để thông tin về xã hội về con người. Truyền thông đại chúng cũng là nơi thể hiện các mối quan hệ giữa các tầng lớp, các nhóm xã hội[351, 352]. Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng là một hướng nghiên cứu cơ bản của xã hội hiện đại. Các nước có truyền thống nghiên cứu xã hội học rất coi trọng hướng nghiên cứu này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà các quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp trong bối cảnh toàn cầu hóa. Truyền thông đại chúng được coi là một tác nhân xã hội, cơ bản tạo nên các liên kết xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi khu vực và quốc tế. Trong giai đoạn phát triển của xã hội học, truyền thông đại chúng bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ trước, bao giờ xã hội học cũng hết sức được coi trọng, nó được coi là hướng nghiên cứu chủ yếu để xem xét các tác động xã hội của hệ thống truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội, và để đánh giá hiệu quả xã hội của hệ thống này. Ngay từ năm 1910, M.Weber người đã đặt luận cứ cho các nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí hàng đầu trong các vấn đề cần phải ưu tiên của xã hội học truyền thông đại chúng. Qua bốn giai đoạn phát triển, nghiên cứu xã hội học truyền thông đại 17 chúng chỉ ra rằng: truyền thông đại chúng tạo nên các tương tác xã hội để hình thành hành động xã hội phù hợp với định hướng xã hội. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hiệu quả truyền thông đại chúng với công chúng bước đầu đã tạo được sự quan tâm của giới chuuyên môn. Từ năm 1990 đến nay đã có một số những công trình theo hướng nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về công chúng. Trước hết phải nối đến những bài viết của tác giả Mai Quỳnh Nam đăng trên Tạp chí Xã hội học, ngoài việc đưa ra những cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu truyền thông đại chúng và dư luận xã hội tác giả đã gợi mở ra hướng nghiên cứu thực nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay. Trên tạp chí Xã hội học số 2 – 1996 trong bài “Về đặc điểm và tính chất của truyền thông đại chúng”,[55] tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa giao tiếp các nhân, giao tiếp đại chúng và hệ thống truyền thông đại chúng.Trên cơ sở phân tích mối qu