Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một chủ trương đúng đắn của Nhà
nước được thực hiện nhằm tạo ra sự tự chủ cho các doanh nghiệp, tạo ra động lực to
lớn cho doanh nghiệp khai thác mọi tiềm năng của mình ngoài các hình thức chuyển
đổi sở hữu DNNN như giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN còn có một
hình thức rất quan trọng đó là cổ phần hoá (CPH).
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước, thì việc đổi mới, sắp xếp lại các
DNNN là một việc làm thiết thực và có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hiện nay.
Là một giải pháp quan trọng trong tiến trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, CPH DNNN
đã phần nào đảm bảo và tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các
DNNN sau khi CPH. Việc tiến hành CPH DNNN giúp huy động vốn của toàn xã hội
để đầu tư đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý, nâng cao sức cạnh tranh
góp phần tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó còn giúp giảm chi ngân sách nhà nước,
tăng thêm vốn thu từ CPH cho nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính hiệu quả của CPH đối với sự phát triển
kinh tế của nước ta, em đã chọn phân tích đề tài “ Quá trình cổ phần hoá của các
doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam - Thực trạng và giải pháp” với hy vọng phản
ánh được phần nào sự sôi động của quá trình CPH đang diễn ra.
13 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1999 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quá trình cổ phần hoá của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quá trình cổ phần hoá của các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt nam - Thực
trạng và giải pháp
Lời mở đầu
Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một chủ trương đúng đắn của Nhà
nước được thực hiện nhằm tạo ra sự tự chủ cho các doanh nghiệp, tạo ra động lực to
lớn cho doanh nghiệp khai thác mọi tiềm năng của mình ngoài các hình thức chuyển
đổi sở hữu DNNN như giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN còn có một
hình thức rất quan trọng đó là cổ phần hoá (CPH).
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước, thì việc đổi mới, sắp xếp lại các
DNNN là một việc làm thiết thực và có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hiện nay.
Là một giải pháp quan trọng trong tiến trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, CPH DNNN
đã phần nào đảm bảo và tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các
DNNN sau khi CPH. Việc tiến hành CPH DNNN giúp huy động vốn của toàn xã hội
để đầu tư đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý, nâng cao sức cạnh tranh
góp phần tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó còn giúp giảm chi ngân sách nhà nước,
tăng thêm vốn thu từ CPH cho nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính hiệu quả của CPH đối với sự phát triển
kinh tế của nước ta, em đã chọn phân tích đề tài “ Quá trình cổ phần hoá của các
doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam - Thực trạng và giải pháp” với hy vọng phản
ánh được phần nào sự sôi động của quá trình CPH đang diễn ra.
nội dung
I. NHững lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập, tổ
chức và quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. hoạt
động của DNNN có thể là hoạt động kinh doanh kiếm lời, có thể là hoạt động phục vụ
lợi ích công cộng.
2. Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá DNNN là việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần với những
doanh nghiệp mà Nhà nước thấy không cần nắm giữ 100% vốn đầu tư, nhằm tạo điều
kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần làm chủ thực sự doanh
nghiệp, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh
nghiệp góp phần tăng trưởng kinh tế.
3. Các hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .
Xuất phát từ chủ trương trên, đồng thời đứng trên quan điểm hoạt động hiệu quả
của doanh nghiệp và xử lý hài hoà lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và ngời lao
động, Nhà nước đã đề ra mô hình CPH với các hình thức sau:
* Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu để thu hút thêm vốn của xã hội để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. hình thức này
áp dụng cho các DN mà nhà nước cần nắm giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định trong DN
và DN đang hoạt động có hiệu quả đồng thời có nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh.
* Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại DN cho người lao động
trong DN và các nhà đầu tư khác để chuyển thành công ty cổ phần. Hình thức này áp
dụng cho các DN chưa cần huy động thêm vốn, mà chỉ cơ cấu lại quyền sở hữu về vốn
và phương thức quản lý DN.
* Tách một bộ phận doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH.
* Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển
thành công ty cổ phần. Hình thức này áp dụng đối với các doanh nghiệp mà nhà nước
không cần nắm giữ cổ phần chi phối.
Trên thực tế, trong quá trình thực hiện CPH, tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng
doanh nghiệp mà có thể kết hợp các hình thức trên.
4. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Theo nghị định số 64/2002/NĐ-CP, việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần
nhằm các mục tiêu sau:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DN, tạo ra loại hình
DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động , tạo động lực mạnh mẽ
và cơ chế quản lý năng động cho DN để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà
nước và của DN .
- Huy động vốn của toàn xã hội cả trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công
nghệ phát triển DN.
- Phát huy vai trò làm chủ thựcc sự của người lao động, các cổ đông , tăng cường
sự giám sát của Nhà đầu tư đối với DN, đảm bảo hài hoà lợi ích giữa Nhà nước , DN
Và người lao động.
5. Sơ lược về công ty cổ phần.
* Công ty cổ phần là một loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công
ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn của mình đóng góp vào đó.
* công ty cổ phần là một DN ít nhất 3 thành viên tham gia trong quá trình hoạt
động. Như vậy công ty cổ phần là một sự liên kết của nhiềug thành viên với mục đích
chung là lập ra một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, có tài sản độc lập, có các
quyền về tài sản và các quyền khác, công ty có thể là nguyên, bị đơn trong các vụ
kiện.
* Trong qúa trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán,
cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng theo quy định của pháp luật để huy động vốn.
II. quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở việt nam.
1. Thực trạng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam.
Thực tiễn hơn mười năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước
ta đã khẳng định đường lối đổi mới ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, nhiều nhà kinh
tế trên thế giới đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam, coi đó là "hiện tượng
Việt Nam". Theo báo cáo của Ban dổi mới DNNN thì có một số công ty CP đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh: doanh thu của
công ty tăng lên, điển hình là cng ty cơ điện lạnh dạt 94 tỷ đồng so với 46 tỷ đồng
trước khi CPH, số lượng lao động chẳng những không giảm mà còn tăng lên, ví dụ
như công ty chế biến xuất khẩu Long An từ 900 lao động lên 1280 lao động, thu nhập
của người lao động bình quân hàng năm tăng lên, như công ty cổ phần đại lý liên hiệp
vận chuyển thuộc bộ giao thông vận tải có thu nhập tăng từ 1,1 triệu đồng lên 4,4 triệu
đồng (người/tháng); lợi nhuận của công ty tăng; nộp ngân sách nhà nước tăng; vốn
điều lệ tăng, tỷ suất cổ tức đã cao hơn lãi suất tiết kiệm, có công ty đạt trên2,5%.Sau
quyết định 388 của Chính phủ, sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước, vừa giải thể các
doanh nghiệp thua lỗ nhiều năm, vừa sát nhập, đến nay chúng ta còn gần 6000 doanh
nghiệp nữa. Bên cạnh những mặt được, hoạt động của DNNN còn bộc lộ nhiều hạn
chế:
*Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, vốn ít, kỹ thuật lạc hậu. ở
nước ta số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 50%. Năm 1994 doanh thu trung
bình của các doanh nghiệp Nhà nước do Bộ, ngành trung ương quản lý là 64 tỷ
đồng/năm. Các doanh nghiệp địa phương quản lý là 16 tỷ đồng/ năm. Trừ một số
DNNN mới xây dựng trong những năm gần đây, hầu hết các doanh nghiệp lại có kỹ
thuật lạc hậu so với thế giới tới 2 - 3 thế hệ như ngành đường sắt, đóng tầu, cơ khí... vì
vậy sản phẩm của các doanh nghiệp này cung cấp có chi phí sản xuất cao, chất lượng
kém.
*Tình trạng chiếm dụng vốn, công nợ dây dưa kéo dài giữa các DNNN là hiện
tượng phổ biến. Tính đến 31/12/1994 tổng số công nợ phải thu chiếm 20% doanh thu
khu vực kinh tế này, bằng 54% tổng số vốn của doanh nghiệp và tổng số công nợ phải
trả chiếm 26,4% doanh thu. Trừ một số doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ như Ngân
hàng thương mại, Công ty bảo hiểm, còn lại đại bộ phận của DNNN đều có số nợ phải
trả lớn hơn số nợ phải thu, số nợ không có khả năng thanh toán rất lớn.
* Hệ thống quản lý nặng lề, kém linh hoạt, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ
chế thị trường. Các quyết định đầu tư, các phương án sản xuất kinh doanh và tiêu thụ
sản phẩm, các phương án đổi mới kỹ thuật và công nghệ, phân phối tài chính... có quá
nhiều quy định, thủ tục phiền hà, chế độ tập thể quyết định, trên thực tế không ai chịu
trách nhiệm, gây thất thoát lớn đối với tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp.
* Hiệu quả kinh tế trong các DNNN rất thấp, nhiều DNNN không bảo tồn được
vốn, mức sử dụng lao động thấp, tốc độ chu chuyển của vốn chậm, sức cạnh tranh yếu.
Đến cuối năm 1994, riêng DNNN do địa phương quản lý thua lỗ lên tới 469 doanh
nghiệp, chiếm 12% tổng số DNNN và 33,2% tổng số lỗ của khu vực kinh tế Nhà nước.
Có doanh nghiệp trước khi có quyết định giải thể còn mắc nợ hàng trăm tỷ đồng và
hàng triệu đô la. Mặc dù Chính phủ thường xuyên rà soát công nợ của DNNN và có
chính sách phù hợp đối với số nợ tồn đọng từ nhiều năm trước, nhưng nhiều DNNN
vẫn không có khả năng trang trải công nợ bằng lợi nhuận thu được của các doanh
nghiệp này. Hiện tượng các DNNN "ăn vào vốn" vẫn còn khá phổ biến, như vậy sự tồn
tại của khu vực kinh tế Nhà nước quá lớn trở thành gánh nặng đối với ngân sách Nhà
nước.
Thực trạng sự hoạt động kém hiệu quả, kém năng động của khu vực kinh tế Nhà
nước là hiện tượng phổ biến ở các nước. Từ những năm 80 của thế kỷ XX ở các nước
tư bản đã diễn ra quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước.
2. Nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt nam.
2.1.Nguyên nhân chủ quan.
Do quan điểm về CPH vẫn chưa được thống nhất giữa các cấp, các ngành, các
địa phương...Mặt khác tập thể ban lãnh đạo DN lo ngại CPH thì liệu họ có còn chức,
quyền nữa hay không, một bộ phận công nhân lao đọng sợ mất việc làm hoặc không
được hưởng các quyền lợi như trước kia nữa sau khi tiến hành CPH như: chế độ bảo
hiểm, y tế... rồi quá trình xác định giá trị DNNN trước khi CPH gặp không ít khó khăn.
Nhà nước chậm ban hành các văn bản tạo khuôn khổ pháp lý cho tiến trình CPH ...
2.2. Nguyên nhân khách quan.
Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, giá cả
giảm, thị trường thu nhập, khả năng thanh toán trong dân cư thấp . Vì thế hiệu quả
kinh doanh không cao, kém hấp dẫn người mua cổ phần. Phần lớn các DNNN có trình
độ công nghệ lạc hậu, sản phẩm làm ra không có tính cạnh tranh để chiếm lĩnh thị
trường. Bên cạnh đó hiểu biết của dân chúng về CPH còn nhiều hạn chế.
Như vậy, muốn đẩy nhanh quá trình CPH DNNN trong thời gian tới, chúng ta
phải giải quyết được các nguyên nhân làm chậm tiến trình CPH.
3. Giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam.
Để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi DNNN em xin nêu nên một số giải pháp sau
đây hy vọng phần nào giúp các nhà hoạch định đề ra những phương án hiệu quả để quá
trình CPH ở nước ta diễn ra thành công để nhanh chóng đưa đất nước phát triển lên
một tầm cao mới:
* Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ chức năng xây dựng và hoàn thiện môi
trường pháp lý để hình thành một môi trường kinh doanh đồng nhất, bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho việc sắp xếp lại và CPH DNNN.
* Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống tiêu thức phân loại DN trên cơ sở giữ vững
và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thông qua:
- Xây dựng cơ sở vững chắc để khai thác triệt để các tiềm năng, tạo động lực
phát triển các vùng kinh tế.
- Nắm giữ và chi phối những ngành kinh tế quan trọng nhằm đảm bảo nền kinh
tế quốc dân phát triển cân đối, có hiệu quả và đúng định hướng XHCN.
- Đẩy mạnh CPH, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN hoạt động
trong những ngành nghề mà các thành phần kinh tế khác có thể đảm nhận.
* Để thúc đẩy các DN nâng cao trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh và
lành mạnh hoá tình hình tài chính, đề nghị Chính phủ chỉ đạo sửa đổi tồn tại của một
số cơ chế chính sách hiện hành chưa phù hợp và ban hành những chính sách tháo gỡ
khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi cho các DN thực hiện CPH.
- Xây dựng cơ chế ưu đãi hợp lý và cơ chế xử lý nợ để khuyến khích các DN
thực hiện chuyển đổi sở hữu và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Bao gồm cả
biện pháp khoanh nợ, xoá nợ và chuyển nợ thành cổ phần ở những DN CPH.
- Ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DN noài
quốc doanh.
- Hướng dẫn triển khai quy chế quản lý phần vốn Nhà nước tại các DN khác.
* Chính phủ cần có biện pháp đôn đốc và quy định trách nhiệm cho các bộ,
ngành, UBNN các tỉnh, thành phố và các tổng công ty trong việc thực hiện tốt công tác
sắp xếp, phân loại và CPH DNNN.
* Có cơ chế cụ thể xử lý đối với những tài sản và nợ khó đòi khỏi giá trị DN.
thành lập công ty quản lý tài sản và mua bán nợ theo tinh thần nghị quyết số
11/2000/NĐ-CP, ngày 31/7/2000 của chính phủ để hỗ trợ các DN xử lý những vấn đề
tồn tại về tài chính khi thực hiện các đề án chuyển đổi sở hữu và giảm thiểu những tổn
thất của Nhà nước trong quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu. Mặt khác, sự ra đời
của công ty này sẽ giúp cho các DN lành mạnh hoá vấn đề tài chính ngay trong quá
trình sản xuất kinh doanh và hỗ trợ các DN CPH không đủ điều kiện niêm yết thực
hiện mua bán, trao đổi cổ phiếu.
* Nhận thức về CPH DNNN chưa được nhất quán trong các cấp lãnh đạo , các
tổng công ty và các đơn vị trực thuộc, Nghị quyết đại hội Đảng VIII, Nghị quyết đại
hội trung ương 3 khoá IX về CPH chưa được quán triệt đầy đủ. Nhiều đơn vị, DN
chưa coi trọng vai trò và ý nghĩa của tiến trình CPH DNNN. còn chần chừ, chờ đợi chỉ
nói nhiều về vướng mắc mà ít tổ chức học tập để giải thích, thuyết phục và chỉ đạo đơn
vị. Đặc biệt, không ít nơi người lãnh đạo trong DN đều sợ mất sự bao cấp của Nhà
nước, sợ mất quyền lợi, mất việc làm nên không muốn CPH.
* Chủ trương, chính sách về CPH chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập, quy trình và
thủ tục còn nhiều phức tạp, chưa khuyến khích doanh nghiệp và người lao động như:
Khống chế tỷ lệ mua cổ phiếu lần đầu, quy định số cổ phiếu ưu đãi đối với cán bộ
quản lý, xử lý phần vốn tự bổ sung, nợ khó đòi và lao động dư thừa....
Nhà nước cũng chưa tạo được môi trường thực sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, nhất là quyền sử dụng đất, vay vốn, xuất nhập khẩu.... nên khi chuyển thành
công ty CP thì thấy bị thiệt thòi so với trước đây.
* Ngoài ra, việc thẩm định giá trị doanh nghiệp CPH hiện nay thực sự khó khăn,
phức tạp và thường kéo dài. Theo quy định của thông tư 104/1998/TT-BTC(Bộ tài
chính) hướng dẫn thi hành Nghị định 44/NĐ-CP thì thời gian xác định giá trị công ty
CPH là 15 ngày, kể từ ngày thành lập hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp, nhưng
trên thực tế quy định trên không được thực hiện. Mặt khác, phương pháp đánh giá theo
“hội đồng” còn mang yếu tố chủ quan, có thể gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp.
III. thực tiễn cổ phần hoá tại tổng công ty xi măng việt nam.
1. Quá trình cổ phần hoá của tổng công ty xi măng việt nam.
Triển khai việc thực hiện chỉ thị số 20/1998/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về
đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN, đề án “Sắp xếp đổi mới sản xuất kinh doanh
của Tổng công ty Xi măng Việt Nam” đã được Chính phủ phê duyệt ngày 9/7/1999.
Chương trình mục tiêu thực hiện CPH DNNN cũng được xác định rõ và tiến hành rất
khẩn trương sau khi Chính phủ phê duyệt danh sách đơn vị tiến hành CPH tại quyết
định 140/1998/QĐ-TTg ngày 1/8/1998.
Kết thúc năm 1999, tổng công ty xi măng Việt nam đã được Ban đổi mới và phát
triển DN Trung ương đánh giá là đơn vị thực hiện tốt công tác CPH: hầu hết các đơn
vị được lựa chọn để thực hiện CPH đều phải giải quyết hậu quả do dư thừa lao động
mà phần đông là lao động có tay nghề thấp, chẳng hạn như ở Công ty Tấm lợp Vật liệu
xây dựng Đồng Nai (DONACO), số lao động khi chuyển đổi là 631 người nhưng lao
động thực sự cần sau CPH chỉ khoảng 400 người. Tuy nhiên, do đã có quá trình
nghiên cứu kỹ lưỡng về chủ trương chính sách, lại là những người thường xuyên đi
sâu, đi sát với hoạt động của các doanh nghiệp nên trong quá trình thực hiện CPH các
cán bộ trong ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp đã có những đề xuất để tổng công
ty có giải pháp kịp thời. Chính vì vậy mà kế hoạch CPH của tổng công ty đã hoàn
thành 100%. Đây là kết quả duy nhất trong tiến trình chung của cả nước và là kinh
nghiệm tốt cho nhiều đơn vị học tập.
2. Những thành công của tổng công ty xi măng việt nam.
Sau khi CPH tổng công ty đã đạt được những mục tiêu cơ bản mà chương trình
CPH đã đề ra như: huy động vốn, phát huy tính sáng tạo, tự chủ của tập thể người lao
động và nâng cao sức cạnh tranh của DN.
Về sản lượng, doanh thu, lợi nhuận của tất cả các công ty cổ phần đều tăng mạnh
so với trước khi CPH. Đặc biệt là người lao động luôn có việc làm ổn định và thu nhập
ngày càng cải thiện. Điển hình như tại công ty CP bao bì Hoàng thạch và công ty bao
bì Bỉm sơn trong năm 1999 sản lượng tăng 111% đến 123%, doanh thu tăng từ 112%
đến 116%, lơi nhuận tăng từ 119% đến 149%, cổ tức tăng từ 14,4 đến 17% , thu nhập
của người lao động tăng từ 5% đến 20% so với phương án CPH đặt ra .
Sức cạnh tranh của các công ty CP đang tăng lên sau một thời gian đi vào hoạt
động, sản phẩm của công ty cổ phần Đá xây dựng Hoà phát sản xuất đến đâu được
tiêu thụ hết đến đó, có khi người mua phải xếp hàng đăng ký; công ty CP bao bì Bỉm
sơn mặc dù chưa đi vào giao dịch trên thị trường chứng khoán, nhưng giá trị cổ phiếu
của công ty trên thị trường tự phát đã tăng mạnh, biên độ giao động tăng trong khoảng
200% đến 300%, có thời điểm lên tới 350%. Ngoài ra bộ máy hoạt động của các công
ty này lại gọn nhẹ hơn rất nhiều vì thế chi phí hành chính cũng giảm theo. Công ty CP
Tấm lợp vật liệu xây dựng Đồng Nai trước khi CPH có 13 đầu mối phòng ban, nay
giảm xuống chỉ còn 6 đầu mối và biên chế lao động cũng tiếp tục giảm dần sau một
thời gian hoạt động.
3. Những tồn tại và kiến nghị.
Phát huy kết quả CPH DNNN 1998-2000, năm 2001 tổng công ty xi măng tiến
hành CPH tiếp 2 bộ phận DN trực thuộc đơn vị thành vien là Công ty kinh doanh
Thạch cao xi măng và Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. Tuy nhiên, đến nay cả 2 bộ
phận này phải dừng lại vì hiệu quả thấp. Hội đồng quản trị tổng công ty phải quyết
định phải chuyển sang hình thức bán, khoán hoặc cho thuê.
Các công ty CP hiện nay chưa được cấp nào quản lý, hướng dẫn xét duyệt , phong
tặng các danh hiệu thi đua khen thưởng cho cá nhân và tập thể người lao động. Phương
thức lãnh đạo và tổ chức sinh hoạt Đảng, đoàn thanh niên của công ty CP cũng chưa
có hướng dẫn nên gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Công nợ khó đòi, tài sản tồn kho , ứ đọng không cần dùng đến để lại cho DNNN
cấp quản lý của đơn vị CPH không sử lý được do cơ chế và các quan hệ xã hội trở
thành gánh nặng cho DNNN nơi có bộ phận DN thực hiện CPH.
Lao động trong công ty CP khi chấm dứt hợp đồng lao động, đều bắt DNNN cấp
trên phải chi trả chế độ theo thời gian làm việc trước khi chuyển sang CPH cũng là
gánh nặng cho DNNN.
Để đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN của tổng công ty nói riêng và cả nước nói
chung, lãnh đạo tổng công ty Xi măng VN cho rằng Chính phủ cần có chương trình
kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo sát thực với các tổng công ty và DNNN nằm trong danh
sách thực hiện CPH. Động viên khen thưởng kịp thời những đơn vị làm tốt và phê bình
những đơn vị chưa thực hiện tốt những chủ trương của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh
đó cũng cần có biện pháp thông thoáng giải quyết các công nợ và vật tư tồn động, lao
động dôi dư trong các DNNN tiến hành CPH. Cần tập trung thực hiện tốt các chính
sách ưu đãi quan tâm đến việc quản lý, chỉ đạo giúp đỡ của các cấp các ngành đối với
công ty cổ phần, tạo điều kiện cho họ được phát triển trong điều kiện mới, môi trường
mới.
kết luận
Như vậy, việc thực hiện cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta, là một gải pháp quan trọng tạo chuyển biế cơ bản trong việc nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các DNNN ở Việt Nam, từ đó thúc đẩy tăng trưởng nền
kinh tế đất nước. Nhưng để chủ trương này được thực hiện thành công, Việt Nam cần
đề ra được một mục tiêu, một mô hình phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của các
doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt nam nói chung. Hơn nữa, để đảm bảo tiến
trình CPH theo đúng kế hoạch, đạt kết quả cao thì cần phải có các giải pháp tổng thể
để xử lý nh