Để phục vụ cho yêu cầu của quá trình quốc tế hoá toàn cầu. Khoa học
nghiên cứu sự phát triển kinh tế trong thời đại này đòi hỏi chúng ta phải có cách
nhìn nhận đúng đắn đáp ứng đợc nhu cầu của công cuộc hội nhập.
Sự hình thành và phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế là một tất yếu khách
quan. Ban đầu đó là sự trao đổi sản phẩm giữa các quốc gia do sự khác biệt về
điều kiện tự nhiên nh đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, khí
hậu, ... giữa các quốc gia. Tiếp theo đó là sự phát triển của khoa học công nghệ
nguồn vốn tích luỹ, nguồn lao động, trình độ quản lý. điều đó đa đến sự trao đổi
các yếu tố quá trình sản xuất, đã làm cho trao đổi quốc tế phát triển cả triều rộng
và triều sâu. thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ, ngày càng có hiệu
quả cao ...
Đối với ngành thuỷ sản nói riêng của Việt Nam, đối với những điều kiện về
bờ biển và nguồn nhân lực dồi dào... chúng ta cần đẩy mạnh sản xuất đầu tư và thu
hút vốn đầu tư từ nước ngoài để sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản sang các thị
trờng khu vực và thế giới. Tiềm năng của xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam ngày
càng có u thế, do đó việc nghiên cứu là rất cần thiết đây chính là lý do mà em lựa
chọn đề tài này để nghiên cú. Với sự hớng dẫn tận tình của cô giáo và số tài liệu,
em có thể góp một phần nhỏ bé tiếng nói vào quá trình đẩy mạnh xuất khẩu của
ngành thuỷ sản Việt Nam.
24 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình đẩy mạnh xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quá trình đẩy mạnh xuất khẩu của
ngành thuỷ sản Việt Nam
Lời nói đầu
Để phục vụ cho yêu cầu của quá trình quốc tế hoá toàn cầu. Khoa học
nghiên cứu sự phát triển kinh tế trong thời đại này đòi hỏi chúng ta phải có cách
nhìn nhận đúng đắn đáp ứng đợc nhu cầu của công cuộc hội nhập.
Sự hình thành và phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế là một tất yếu khách
quan. Ban đầu đó là sự trao đổi sản phẩm giữa các quốc gia do sự khác biệt về
điều kiện tự nhiên nh đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, khí
hậu, ... giữa các quốc gia. Tiếp theo đó là sự phát triển của khoa học công nghệ
nguồn vốn tích luỹ, nguồn lao động, trình độ quản lý. điều đó đa đến sự trao đổi
các yếu tố quá trình sản xuất, đã làm cho trao đổi quốc tế phát triển cả triều rộng
và triều sâu. thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ, ngày càng có hiệu
quả cao ...
Đối với ngành thuỷ sản nói riêng của Việt Nam, đối với những điều kiện về
bờ biển và nguồn nhân lực dồi dào... chúng ta cần đẩy mạnh sản xuất đầu tư và thu
hút vốn đầu tư từ nước ngoài để sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản sang các thị
trờng khu vực và thế giới. Tiềm năng của xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam ngày
càng có u thế, do đó việc nghiên cứu là rất cần thiết đây chính là lý do mà em lựa
chọn đề tài này để nghiên cú. Với sự hớng dẫn tận tình của cô giáo và số tài liệu,
em có thể góp một phần nhỏ bé tiếng nói vào quá trình đẩy mạnh xuất khẩu của
ngành thuỷ sản Việt Nam. Do trình độ có hạn nên em có thể chua lý luận chặt chẽ
mong cô chỉ bảo em nhiều. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I
lý luận chung Về sức cạnh tranh của hàng hoá
I. khái niệm đặc điểm, vai trò, của cạnh tranh hàng hoá.
1. Khái niệm
2. Đặc điểm
3. Vai trò
II. Sự cần thiết phải tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
1. Tăng cạnh tranh mở rộng quy mô thị trường xuất khẩu thuỷ sản.
2. Tăng chủng loại hàng thuỷ sản xuất khẩu.
3. Tăng ngoại tệ nhằm trang bị kỹ thuật và quản lý chất lượng hàng thuỷ sản
xuất khẩu.
4. Tạo thêm việc làm cho người lao động.
Chương II
Thực trạng sức cạnh tranh của xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam trong
thời gian qua
I. kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản .
1. Cơ cấu hình thức xuất khẩu .
2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
3. Cơ cấu cạnh tranh
II. Những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân.
1. Ưu điểm
2. Nhược điểm
3. Nguyên nhân
chương III
một số giải pháp để tăng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản , xuất khẩu Việt
nam .
1. Trú trọng quản lý chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu.
2. Chính phủ trợ giúp các doanh nghiệp công nghệ bảo quản hàng thuỷ sản
xuất khẩu.
3. Khuyến khích học hỏi kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước mặn
tăng quy mô và chủng loại hàng thuỷ sản xuất khẩu.
4.Chính phủ cần cung cấp thông tin kịp thời về sức cạnh tranh của
hàng thuỷ sản trên thế giới và nhu cầu của các thị trờng về mặt
hàng thuỷ sản cho các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân.
Chương I
Lý luận trung về sức cạnh tranh của hàng hoá
I. Các khái niệm cơ bản về cạnh tranh hàng hoá.
1. Khái niệm cạnh tranh.
Lý luận kinh tế học trên thế giới qua thời gian sự phát triển nền kinh tế thế
giới. Do đó có rất nhiều các quan điểm về cạnh tranh hàng hoá của các nhà kinh tế
học trên thế giới. với việc tiếp cận thị trường trong các điều kiện khác nhau như
cạnh tranh thuần tuý, cạnh tranh hoàn hảo hay các điều kiện khác về cạnh tranh
hàng hoá dịch vụ. Tuy nhiên hiện nay trên các thị trường nước ngoài không còn
hoặc gần như không còn tồn tại sự cạnh tranh thuần tuý và hoàn hảo nữa, tức là
không còn một loại giá thị trường theo nghĩa cân bằng của lý thuyết kinh tế đối
với phần đông các sản phẩm và dịch vụ, ngược lại các thị trường hiện nay chủ
yếu là độc quyền hoặc cạnh tranh không hoàn hảo. với các điều kiện đó mà các
nhà kinh tế học trên thế giới đã có những quan điểm riêng về cạnh tranh của hàng
hoá và dịch vụ. nhưng các quan điểm đó không khác nhau là mấy. Để tổng hợp lại
thành một khái niệm chung nhất về cạnh tranh hàng hoá là. Cạnh tranh là sự sử
dụng những điều kiện những phương pháp của các tổ chức và các doanh ngiệp để
đạt được những vị trí có lợi cho hàng hoá và dịch vụ so với các tổ chức, doanh
ngiệp khác, đối với một hoặc nhiều hàng hoá, dịch vụ khác nhau.
Như vậy chúng ta có thể thấy được cơ cấu cạnh tranh có thể cạnh tranh về giá
cả hoặc chất lượng, mẫu mã… có thể là sản phẩm, hàng hoá của doanh ngiệp, tổ
chức với các doanh ngiệp, tổ chức khác tại nước sở tại hoặc có thể cạnh tranh sản
phẩm, dịch vụ của doanh ngiệp, tổ chức với các doanh ngiệp, tổ chức nước ngoài
khác trong nước sở tại.
2. Khái niệm về sức cạnh tranh.
Đối với các thị trường khác nhau phản ánh súc cạnh tranh khác nhau, thị
trường càng phát triển thì sức cạnh tranh càng cao, và thị trường có mức độ tiêu
chuẩn hoá cao thì nó cũng gây ra sức cạnh tranh rất cao. vậy sức cạnh tranh ở đây
chính là phản ánh mức độ chiếm lĩnh thị trường của hàng hoá ,dịch vụ so với hàng
hoá, dịch vụ khác trên cùng thị trường. Một thị trường mà chi phí càng lớn cho
việc chiếm lĩnh thị trường thì sức cạnh tranh ở thị trường đó càng cao và do đó
việc tạo thêm thị phần cho hàng hoá là rất khó khăn. Do đó phải xét đến các yếu tố
gây nên sức cạnh tranh như giá cả, nhãn mẫu mã, chất lượng… ở các thị trường
khác nhau thì mức độ ảnh hưởng lại khác nhau bởi vì nó còn phụ thuộc vào từng
quốc gia khác nhau vì mỗi quốc gia khác nhau lại có môi trường văn hoá, chính
trị, luật pháp khác nhau nhưng chúng ta có thể xét vấn đề cạnh tranh theo 2 khía
cạnh sau.
Cạnh tranh giữa sản phẩm của doanh nghiệp này với các sản phẩm doanh
nghiệp nội, không những vậy có thể do mức độ ưu tiên cho sản phẩm nội địa ví
dụ thị trường Nhật thì mức độ cạnh tranh lại tăng thêm cho doanh nghiệp. Do vậy
doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường này phải tính toán đến đối thủ cạnh
tranh nội địa. Cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp với các doanh nghiệp nước
ngoài khác. Trong vấn đề này doanh nghiệp lại gặp phải sản phẩm mà nó có hình
ảnh đất nước trong sản phẩm đó được người tiêu dùng ưa chuộng thì sản suất gây
ra khó khăn cho sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó cùng một lúc doanh nghiệp
phải đối mặt với việc cạnh tranh hàng hoá nội địa và doanh nghiệp nước ngoài
khác. trong khi đó nếu càng nhiều chủng loại hàng hoá thì mức độ cạnh tranh lại
càng cao.
3. Khái niệm xuất khẩu.
Phương thức đơn giản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị
trường nước ngoài là xuất khẩu. ở đây cũng có hai cách tiếp cận khác nhau. Xuất
khẩu thụ động là cấp độ hoạt động với nó doanh nghiệp thỉnh thoảng xuất khẩu
một số sản phẩm dư thừa của mình và bán sản phẩm cho khác hàng mua ở thị
trường thường trú đang đại diện cho các doanh nghiệp nước nước ngoài. Việc xuất
khẩu chủ động xẩy ra khi doanh nghiệp muốn đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của
mình sang thị trường đặc thù nào đó một cách lâu dài và có hệ thống. Trong cả hai
cách tiếp cận doanh nghiệp đều xuất khẩu toàn bộ sản phẩm của mình ở trong
nứơc doanh nghiệp có thể cải tiến hoặc không cải tiến gì về mặt hàng, bao gói,
hoặc tổ chức các khoản đầu tư hay nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có thể xuất khẩu sản phẩm của mình bằng hai cách là
xuất khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp.
a. Xuất khẩu gián tiếp.
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức khi thông qua dịch vụ của các tổ chức độc
lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước
ngoài. Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ biến ở cách doanh nghiệp mới tham
ra vào thị trường quốc tế. Hình thức này có ưu điểm cơ bản là ít phải đầu tư.
Doanh nghiệp không phải triển khai một lực lượng bán hàng ở nước ngoài cũng
như các hoạt động giao tiếp và khuếch trương ở nước ngoài. Sau nữa nó cũng hạn
chế được cả dủi ro có thể gây ra tại thị trường, vì trách nhiệm bán hàng thuộc về tổ
chức khác. Tuy nhiên hình thức này cũng có những hạn chế là giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp, do phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ, và do không có liên hệ trực
tiếp với thị trường nước ngoài nên việc nắm bắt các thông tin về thị trường nước
ngoài bị hạn chế, không thích ứng nhanh đựoc với biến động của thị trường. Trong
hình thức này doanh nghiệp có thể sử dụng các trung gian sau.
* Hãng buôn xuất khẩu là hãng buôn bán nằm tại nước xuất khẩu, mua hàng
của người sản xuất sau đó bán lại cho khach hàng nước ngoài.
* Công ty quản lý xuất khẩu, hoạt động giống như một liên doanh xuất khẩu,
giải quyết chức năng như Marketing xuất khẩu như nghiên cứu thị trường chọn
kênh phân phối và khách hàng tiến hành trương trình bán hàng và quảng cáo hàng
…
* Đại lý xuất khẩu là một hãng hay một cá nhân theo một hợp đồng đặc biệt
bán hàng với danh nghiã của nhà xuất khẩu và được trả thù lao bằng hoa hồng.
* Khách vãng lai…
* Các tổ chức phối hợp là sự pha tạp giữa xuất khẩu trực tiếp với xuất khẩu
gián tiếp.
b. Xuất khẩu trực tiếp.
Hầu hết các nhà xuất khẩu chỉ sử dụng trung gian phân phối trong điều kiện
cần thiết. Khi đã phát triển đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêng
của mình để có thể kiểm soát trực tiếp thị trường ,thì ho thích sử dụng hình thức
xuất khẩu trực tiếp hơn. Trong hình thức này nhà xuất khẩu giao dich trực tiếp với
khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức của
mình .
Về nguyên tắc mặc dù xuất khẩu trực tiếp có làm tăng thêm rủi ro trong kinh
doanh, song nó lại có các ưu điểm sau.
Giảm bớt lợi nhuận trung gian sẽ làm tăng chênh lệch giữa giá bán và chi phí,
tức là làm tăng lợi nhuặn cho nhà xuất khẩu.
Nhà xuất khẩu có liên hệ đều đặn với khách hàng và tình hình bán hàng .do
đó có thể thay đổi sản phẩm và các điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiêt.
Các loại tổ chức bán hàng trực tiếp của nhà xuất khẩu gồm:
* Cơ sở bán hàng trong nước. Các bộ phận này hoặc có thể liên quan trực
tiếp tới nghiệp vụ bán hàng xuất khẩu hoặc hoạt độnh như một trụ sở Marketing
xuất khẩu đặt tại trong nứơc gồm có.
+ Gian hàng xuất khẩu
+ Phòng xuất khẩu
+ Chi nhánh bán hàng xuất khẩu
* Đại lý bán hàng xuất khẩu với nhiều loại sản phẩm của nhà xuất khẩu có
thể sử dụng các điều kiện bán hàng thường trực hoăc tạm thời của mình ở thị
trường nước ngoài có các đại diện.
+ Người đại diện được hưởng lương
+ Văn phòng đại diện.
* Chi nhánh bán hàng tại nước ngoài là một bộ phận của doanh nghiệp nầm
tại nước ngoài có trách nhiệm quản lý công việc xúc tiến và phân phối hàng hoá
trên toàn bộ thị trường đã định.
* Tổ chức trợ giúp ở nước ngoài là một công ty riêng rẽ được thành lập và
đăng ký ở nước ngoài. Song hầu hết vốn cổ phần của nó lại do nhà xuất khẩu nắm
quyền sở hữu. So với chi nhánh bán hàng hình thức tổ chức này có ưu điểm là
khong có vấn đề về thuế tuy nhiên có thể va chạm vấn đề pháp lý.
* Đại lý nhập khẩu. về hình thức đại lý nhập khẩu cũng giống như đại lý xuất
khẩu hoặc thâm trí chúng giống nhau về tư cách pháp nhân.
* Nhà thương lượng quốc tế, mua và bán dưới tên riêng của người đó theo
từng thương vụ khi có cơ hội mà không cần có quan hệ tiếp tục với khách hàng và
nhà cung ứng.
* Chuyển giao hoặc xuất khẩu bí quyết công nghệ .
II. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá
1. Số lượng đối thủ cạnh tranh.
Việc đánh giá các điểm mạnh và điểm yếu của sự cạnh tranh là một trong
những nội dung quan trọng trong khi xem xét thị trường nước ngoài. Trước hết các
nhà kinh doanh nước ngoài phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh nội địa. ở đây
có thể xẩy ra hai trường hợp xét theo vị thế cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh nội địa
có thể được hưởng một ưu thế rất thuận lợi do những hỗ trợ của Chính phủ và tinh
thần dân tộc của khách hàng .Không những vậy số lượng các đối thủ nội địa cũng
có thể gây sức ép đối với hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên ở các nước khác
như các nước đang phát triển thì ngựơc lại đối thủ cạnh tranh nội địa lại gặp phải
thế bất lợi, do sự mất tín nhiệm của khách hàng đói với uy tín của doanh nghiệp
đó hoặc trở thành nạn nhân của thói chuộng hàng ngoại. Khi phân tích vị thế
cạnh tranh, các nhà kinh doanh phải xác định được tâm lý thị trường nội địa ở các
cấp độ lan truyền của nó. Những điểm này rất quan trọng trong việc xác định
chính sách Marketing của doanh nghiệp.
Loại đối thủ thủ hai là các doanh nghiệp nước ngoài khác đang hoạt động
trên thị trường đó. Nhà kinh doanh không thể chờ đợi ở họ một sự hợp tác hay
những phản ứng thụ động , mà ngược lại doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những
biện pháp ứng phó khi trực tiếp, khi gián tiếp, khi thô thiển, khi lại rất tinh vi. Với
những nguồn lực có thể rất đáng kể được chi phí cho cạnh tranh.
2. Số lượng sản phẩm.
Trong một thị trường nhất định.Số lượng sản phẩm cùng loại và sản phẩm
thay thế cũng phản ánh sư cạnh tranh của sản phẩm đó. Số lượng sản phẩm càng
nhiều thì mức độ cạnh tranh càng cao. Với các sản phẩm đồng nhất hoặc được
xem như đồng nhất , thì các đối thủ cạnh tranh luôn tìm các hình thức cạnh tranh
khác nhau làm cho sản phẩm của mình mà khách hàng cho là có ý nghĩa. Những
nỗ lực như thế không chỉ bao gồm sự thay đổi về sản phẩm mà còn thay đổi về bao
gói, kênh tiêu thụ, quảng cáo và giá cả. Khi số lượng sản phẩm là đủ phong phú
vá người mua và người bán cũng đủ lớn để hành vi của người này không thể ảnh
hưởng đến người khác thì cạnh tranh giá cả có ý nghĩa quan trọng. Do đó giá có
su hướng bị ép giá, hạ xuống đến mức chi phí đơn vị trung bình và những nhà sản
xuất có có mức chi phí thấp hơn sẽ thu được lợi thế cạnh tranh. Đúng lúc này đối
thủ có sản phẩm thay thế bắt đầu xuất hiện có thể gây nên mức độ cạnh tranh khốc
liệt hơn, sản phẩm mới có những ưu điểm mà khách hàng cho là phù hợp, với họ.
Lúc này sản phẩm của doanh nghiệp sẽ lâm vào môi trường cạnh tranh khốc liệt
hơn, không những vậy lúc này số lượng hàng hoá càng nhiều và hàng hoá đa
dạng, vì thế khách hàng sẽ lựa chọn cho những sản phẩm phù hợp ở mọi góc độ
của nó kể cả giá trị sử dụng và giá cả.
3.Nhu cầu thị trường
Một trong những chỉ tiêu quan trọng cho nhu cầu thị trường là tổng hợp sản
phẩm có thể tiêu thụ, doanh số và lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể hi vọng
thuđược trên thị trường. Và các điều kiện này cũng đánh giá sức cạch tranh hàng
hoá cuả doanh nghiệp.
III. Nhận xét chung và ý nghĩa.
Việc nghien cứu cạnh tranh và xuất khẩu hàng hoá chúng ta luôn phải bám
sát với các nhân tố. Như giá cả, mẫu mã, chủng loại, chất lượng ... của các đối thủ
cạnh tranh, đánh giá tổng hợp đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp cho
doanh nghiệp. Có thể phân biệt ở thị trường nào, trong điều kiện nào chúng ta áp
dụng các chiến thuật kinh doanh riêng biệt thích hợp nhất.
Nghiên cứu vấn đề này, đã cho chúng ta có cơ sở lý luận khoa học về khía cạnh
xuất khẩu, để có thể áp dụng vào một loại hàng naò đó. Phần này có ý nghiã cho
nhgiên cứu hàng thuỷ sản xuất khẩu để đưa được chiến lược cạnh tranh có lợi cho
hàng thuỷ sản xuất khẩu cuả Việt Nam hiện nay và trong tương lai, và vấn đề
nghiên cứu này nó còn củng cố thêm những hiểu biết cho tác giả nhgiên cưu nó.
Chương II
Thực trạng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam trong thời
gian qua
I. Thực trạng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu.
1.Xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường nước ngoài .
Trong thời gian qua (1991-1999). Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam không ngừng
tăng lên từ 263,23triệuUSD/1991 lên 550,1triệuUSD/1995 ,
856,6triệuUSD/1998.và ước đạt 950triệu USD/1999. Từ năm 1992đặc biệt từ năm
1995 đến năm 1998 để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường nhiều doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản, đã đầu tư nâng cấp thay đổi công nhgệ. Đã
góp phần đưa chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam có được diệm mạo mới,
được xếp vào hàng các nước có công nghệ chế biến xuất khẩu thuỷ sản tiên tiến
trong khu vực với khối lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng cao, đến nay
hàng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã có mặt trên gần 60 nước và lãnh thổ. Trứơc
đó năm 1995 là 25 nứơc. Năm 1997 là 46 nước, 5 năm trở lại đây 1996 –
2000.Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế sau hợn một thập kỷ theo
đường lối đổi mới của đất nước. Nghành thuỷ sản đã có nhiều nỗ lực vượt qua mọi
khó khăn thách thức và đạt được những thành tựu nhất định. Từ năm 1996 đến nay
nghàng luôn hoàn thành kế hoạch nhà nước giao năm sau cao hơn năm trước đạt
ddược mức độ tăng trưởng tổng sản lượng bình quân 9,17%/năm. Giá trị kim
ngạch xuất khẩu tăng bình quân 21,85%/năm. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt
1,475 tỷ USD, bằng 1/10 tổng kim nhạch xuất khẩu của cả nước, vươn lên đứng
thứ 3 trong các nghành hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Trong 5 năm từ 1996 –2000 tổng mức đầu tư của nghành thuỷ sản là 9.185.640
triệu dồng. Đầu tư nước ngoài trong đó 545 tỷ đồng (chiếm 5,93%). Trong hơn
9000 tỷ đồng được huy động để đầu tư phát triển, nghành chú ý vận dụng nội lực
là chính. Vốn đầu tư trong nước là khoảng 8600 tỷ đồng. Chiếm tới 94,07 %tổng
mức đầu tư, do có được nguồn vốn trong nước lớn như vậy. Ngoài nguồn vốn
ngân sách, nghành đã có biện pháp huy động nguồn vốn trong dân được 1700 tỷ
đồng chiếm tỷ trọng 18,62%. Tuy vậy có thể thấy đầu tư nước ngoài vào nghàng
thuỷ sản còn hạn chế, thị trường thuỷ sản chưa hấp dẫn được các nhà đàu tư nước
ngoài, mặc dù vậy nhưng đầu tữ thuỷ sản vẫn có những lợi thế đem lại cho Việt
Nam. Hết năm 2000 có 50 doanh nghiệp chế biến đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ
sản vào thị trường EU, 77 doanh nghiệp xuất khẩu vào Bắc Mỹ .
Bước vào năm 2000 nghàng thuỷ sản đứng trước những khó khăn thách thức. Quy
hoạch tổng thể của nghành thời kỳ 2000-2010, chưa được phê duyệt. Đầu tư cho
nghành ngày càng lớn mạnh trong khi nguồn ngân sách còn hạn chế , đàu tư nước
ngoài thấp trình độ quản lý về đầu tư của nghành từ bộ đến địa phương chưa cao,
năng lực chưa đáp ứng kịp thơi nhu cầu nhân lực cho đầu tư phát triển . Tuy vậy
nghành thuỷ sản đã có phương hướng đầu tư thời kỳ 2001-2005 trong 5 năm tới
nghàng đã xách định đầu tư theo quy hoạch ổn định và bền vững. Tập trung đầu tư
vào các chương trình kinh tế trọng điểm nghành, như đánh bắt hải sản xa bờ phảt
triển nuôi trồng thuỷ sản, phát triển xuất khẩu thuỷ sản một cách đồng bộ nhằm
đạt kết quả cao nhất, chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng CNH –HĐH nghề cá.
2. Sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam tại thị trường EU
Riêng đối với hàng thuỷ sản hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn thế
giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17kg/năm, tăng dần hàng năm là
3%.Trong đó thị trường chính là Anh, Pháp ,Đức, Hà lan, Tây Ba Nha. EU nhập
khẩu hàng chính là tôm và cá dưới dạng sản phẩm ăn liền , hàng đông lạnh hàng
tươi sống. Xuất khẩu thuỷ sản của EU hiện nay đạt 8 tỷ USD /năm. Trong đó Uỷ
ban nhgề cá của EU tuyên bố giảm 1/3 sản lượng khai thác thuỷ sản từ năm 1997-
2010. Nhằm để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Do vậy nhu cầu nhập thuỷ sản của EU
đã giảm. Đây là thị trường khó tính nó chọ lọc với những yêu cầu nghiêm ngặt về
tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, vện sinh thực phẩm cao. Hàng xuất khẩu thuỷ sản
vào EU chủ yếu là các nuớc Châu á như Thái Lan, Nhật Bản, ấN Độ, Việt Nam ...
Trong đó Thái Lan là nước dẫn đầu thế giới về tôm, xuất khẩu tôm và cá
ngừ...Còn ÂNĐộ là nước xuất khẩu mực ống và tôm sang các nước thuộc liên
minh Châu Âu. Các sản phẩm của họ rất được ưa chuộng và được đánh giá cao ở
thị trường này do công nghệ cuả ÂnĐộ tiên tiến. Đáp ứng đứng đựơc những quy
định. Với những điều đó 11-1990 quan hệ Việt Nam và EU được bình thường
hoá ,11-7-1995 Việt Nam và EU ký hiệp định hợp tác tại Brussel, trong đó EU
dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế ưu đãi thuế quan.
3.Xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ
Với thị trường Mỹ năm 1997 có khoảng 17 doanh nghiệp. Năm 1998 là 30
doanh nghiệp và năm 1999 trên 50 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn, đủ điều kiện bảo
đả