Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh  rất quan tâm về sự nghiệp giáo dục. Người chỉ ra 
rằng: “Muốn giữ vững nền  độc lập, muốn cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam 
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham 
gia vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trước hết phải biết  đọc, biết viết chữ quốc ngữ” 
[20, tr.3]. Người cũng chỉ  cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh yếu hèn đó là con đường 
phát triển giáo dục: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong thư gửi học sinh nhân ngày 
khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (tháng 9/1945), Bác đã viết: “Non sông Việt 
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai 
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của 
các cháu” [18, tr.33]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thể hiện qua câu nói bất hủ của 
Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Tư tưởng xuyên 
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục luôn toả sáng tính cách mạng, tính 
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời cách mạng, Người chỉ có một ham muốn, ham 
muốn tột bậc là: “Làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào 
ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [20, tr.161].
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chủ Tịch,  Đảng và Nhà nước ta  đã có nhiều chủ 
trương, chính sách  và biện pháp phát triển nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân 
dân. Hệ thống mạng lưới trường lớp đã được phủ kín khắp các bản làng, thôn xóm trong cả 
nước  để thực hiện mục tiêu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục tiểu 
học  đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập trung học cơ sở, phổ cập trung học phổ thông...Vấn  đề 
phát triển sự nghiệp giáo dục và  đào tạo  đã và  đang được toàn xã hội quan tâm.  Đảng và 
Nhà nước ta  đang tập trung và  ưu tiên hơn trong việc  đầu tư đối với các vùng khó khăn và 
đã thu được một số kết quả, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta trong giáo dục.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của  Đảng Cộng sản Việt Nam xác  định mục tiêu tổng 
quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-  2010 là đưa đất nước ta ra khỏi tình 
trạng  kém phát triển, nâng cao rõ rệt  đời sống vật chất, văn hoá  và tinh thần của nhân dân, 
tạo nền tảng  để  đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại “con  đường công nghiệp hoá  -  hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút 
ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước 
nhảy vọt...”.  Để  đạt  được các mục tiêu nói trên, giáo dục và  đào tạo, khoa học và công 
nghệ có vai trò quyết định, là nhu cầu bức thiết của  đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 81 trang
81 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với 
trường trung học phổ thông ngoài công lập 
Mở đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm về sự nghiệp giáo dục. Người chỉ ra 
rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam 
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham 
gia vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” 
[20, tr.3]. Người cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh yếu hèn đó là con đường 
phát triển giáo dục: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong thư gửi học sinh nhân ngày 
khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (tháng 9/1945), Bác đã viết: “Non sông Việt 
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai 
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của 
các cháu” [18, tr.33]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thể hiện qua câu nói bất hủ của 
Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Tư tưởng xuyên 
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục luôn toả sáng tính cách mạng, tính 
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời cách mạng, Người chỉ có một ham muốn, ham 
muốn tột bậc là: “Làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào 
ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [20, tr.161]. 
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chủ Tịch, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ 
trương, chính sách và biện pháp phát triển nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân 
dân. Hệ thống mạng lưới trường lớp đã được phủ kín khắp các bản làng, thôn xóm trong cả 
nước để thực hiện mục tiêu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục tiểu 
học đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập trung học cơ sở, phổ cập trung học phổ thông...Vấn đề 
phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã và đang được toàn xã hội quan tâm. Đảng và 
Nhà nước ta đang tập trung và ưu tiên hơn trong việc đầu tư đối với các vùng khó khăn và 
đã thu được một số kết quả, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta trong giáo dục. 
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu tổng 
quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001- 2010 là đưa đất nước ta ra khỏi tình 
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân, 
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại “con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút 
ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước 
nhảy vọt...”. Để đạt được các mục tiêu nói trên, giáo dục và đào tạo, khoa học và công 
nghệ có vai trò quyết định, là nhu cầu bức thiết của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. 
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế đi đôi với thúc 
đẩy tiến bộ xã hội. Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đổi mới tư 
duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân 
từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều 
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa. Từ quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta đã 
thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện trong thực tế: Hiến pháp năm 
1992 (sửa đổi năm 2001): "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội 
phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài..." (Điều 
35); Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua vào tháng 12/1998 (Sửa đổi, bổ sung năm 
2005); Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính phủ quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới 
chương trình giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập giáo 
dục trung học cơ sở của Quốc hội khóa X thông qua ngày 09/12/2000... 
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước 
đi theo phương châm đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, xây dựng một nền 
giáo dục có tính chất thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, 
đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, 
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện mục 
tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010. 
Nhằm thực hiện chủ trương của Đảng cũng như mục tiêu của Nhà nước, nhiều loại 
hình giáo dục đã được mở ra, trong đó có giáo dục ngoài công lập. Phát triển giáo dục ngoài 
công lập là đũi hỏi khỏch quan của cuộc sống, có cơ sở lý luận và thực tiễn. Trong hoàn 
cảnh đất nước cũn nhiều khú khăn, ngân sách của nhà nước chưa đủ để đầu tư lớn hơn cho 
giáo dục, thỡ việc huy động rộng rói cỏc nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục là một 
đũi hỏi tất yếu. Điều này đó được khẳng định trong các văn bản pháp quy và càng ngày càng 
được thể chế hoá một cách chặt chẽ, đồng bộ. Trong quá trỡnh triển khai, cỏc chớnh sỏch 
của trung ương cũng như của địa phương về các trường ngoài công lập đó ngày càng hoàn 
thiện theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư, phù hợp với yêu cầu của người học. Điều đó đó 
tạo điều kiện cho các trường ngoài công lập gần đây phát triển cả về chất lượng và số lượng. 
Nhỡn một cách bao quát, càng ngày giáo dục ngoài công lập nói chung và các trường 
ngoài công lập ở trung học phổ thông nói riêng càng đạt được nhiều thành tựu to lớn và có 
vai trũ quan trọng hơn trong sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước, đặc biệt là góp 
phần thúc đẩy tiến độ phổ cập giáo dục trung học, đáp ứng được nhu cầu học tập rộng rói 
của học sinh. 
Bên cạnh nhiều thành tựu đó đạt được, đến nay, các trường trung học phổ thông 
ngoài công lập cũng bộc lộ khá rừ những mặt hạn chế, cần phải được nhanh chóng khắc 
phục. Chẳng hạn như mạng lưới các trường ngoài cụng lập phõn bố bất hợp lý, cơ sở vật 
chất thiếu thốn, đội ngũ giáo viên và cỏn bộ quản lý vừa thiếu vừa cũn nhiều bất cập, việc 
huy động và sử dụng các nguồn lực chưa khoa học, chưa mang lại hiệu quả mong 
muốn…Đặc biệt là việc quản lý, chỉ đạo loại hỡnh trường này từ trung ương tới địa phương 
nhỡn chung cũn lỏng lẻo và cú nhiều hạn chế, khiến cho chất lượng đào tạo của loại hỡnh 
trường này chưa cao, nhà trường phát triển thiếu bền vững, thậm chí vận hành có phần 
phiến diện. ở một số địa phương, nhất là ở một số thành phố lớn đó những trường phát sinh 
mâu thuẫn, tiêu cực đến mức buộc phải giải thể. 
Thực tế gần hai chục năm qua cho thấy, chủ trương xó hội hoỏ giỏo dục của Đảng và 
Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn ở cả phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó có nghĩa là 
trong tương lai sẽ có nhiều trường ngoài công lập nói chung, trung học phổ thông ngoài 
công lập nói riêng tiếp tục được ra đời. Nhưng để loại hỡnh trường ngoài công lập có thể 
phát triển theo chiều hướng lành mạnh, chất lượng đào tạo ngày một nâng cao thỡ khụng thể 
khụng cú sự nghiờn cứu đầy đủ về quản lý nhà nước đối với loại hỡnh trường này, để từ đó 
đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trường trung học 
phổ thông ngoài công lập. 
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đó lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước bằng 
pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập” làm đề tài luận văn cao học 
Quản lý Hành chính công. 
2. Tình hình nghiên cứu 
Liên quan đến đề tài, đó có nhiều công trỡnh nghiên cứu khoa học được công bố ở 
trong nước như: 
- Trường tư và trường ngoài công lập ở các nước phát triển phương Tây - Nguyễn 
Thị Hiền, tạp chí Thông tin giáo dục, số 64, năm 1997. Tác giả đó khái quát sự khác biệt 
giữa trường công lập cũng như chính sách phát triển các trường tư ở một số nước phát triển 
như: Anh, Pháp, Đức...; 
- Một số vấn đề cấp bách trong công tác tổ chức quản lí các trường phổ thông dân 
lập - Nguyễn Văn Đản, Thông tin khoa học giáo dục, số 67, năm 1998. Bài báo nêu lên 
những hạn chế trong công tác quản lý các trường phổ thông ngoài dân như: sự quan tâm 
chưa đúng mức của các cơ quan quản lý, hệ thống văn bản pháp luật cho các trường này cũn 
thiếu, chưa rừ, sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền cũn lỏng lẻo...; những 
khó khăn của các trường phổ thông dân lập về đất đai, tài chính, đối tượng tuyển sinh, chất 
lượng giáo viên... Trên cơ sở đó, bài báo đó nêu ra một số vấn đề cần thực hiện như: cần có 
những quy định cụ thể về trường phổ thông dân lập, có cơ chế cụ thể về đất đai, tài chính 
cho trường phổ thông ngoài dân lập, tăng cường công tác kiểm tra đối với giáo dục phổ 
thông ngoài dân lập...; 
- Các giải pháp cải tiến cơ chế quản lý trường trung học phổ thông dân lập thành 
phố Hải Phũng - Nguyễn Thị Mai, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành "Quản lý và tổ chức 
công tác văn hóa giáo dục", Mó số: 5.07.03. Năm 2000. Luận văn đó đánh giá thực trạng cơ 
chế quản lý trường trung học phổ thông dân lập tại Hải Phũng, đề xuất các giải pháp cải tiến 
cơ chế quản lý các trường trung học phổ thông dân lập ở Hải Phũng như: tiếp tục hoàn thiện 
văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục phổ thông dân lập, đẩy mạnh phân cấp quản lý, 
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý ở Hải Phũng...; 
- Những cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng qui chế trường phổ thông ngoài công 
lập, Đề tài cấp Bộ, mó số B 97- 49- 40 - TS. Nguyễn Văn Đản (Viện Khoa học giáo dục) 
làm chủ nhiệm, năm 2001. Nhóm nghiên cứu đề tài đó chỉ ra những cơ sở lý luận và thực 
tiễn của việc xây dựng quy chế trường phổ thông ngoài công lập như: xuất phát từ quan 
điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và xó hội hóa giáo dục, vai trũ của sự tham gia xó hội 
vào công tác giáo dục, thực trạng tổ chức và hoạt động của các trường phổ thông ngoài công 
lập những năm trước 2000... để làm căn cứ xây dựng quy chế trường phổ thông ngoài dân 
lập; 
- Giáo dục phổ thông ngoài công lập thành tựu và tồn tại - Phạm Quang Sáng, tạp 
chí Thông tin giáo dục số 114/2005. Tác giả đó nêu lên những thành tựu của giáo dục phổ 
thông ngoài công lập như: sự phát triển mạnh về số lượng, sự thu hút vốn đầu tư của xó hội 
vào lĩnh vực giáo dục, tạo ra sự cạnh tranh giữa khu vực công và khu vực tư trong giáo dục, 
nhiều cơ sở giáo dục phổ thông ngoài dân lập đó tạo được vị trí vững chắc trong xó hội, có 
chất lượng đào tạo tốt. Bên cạnh đó, tác giả cũng đó chỉ ra những hạn chế như: nhiều trường 
có sở vật chất cũn nghèo nàn; đội ngũ giáo viên cơ hữu cũn thiếu; chất lượng giáo dục chưa 
cao; thực hiện quy chế chưa nghiêm...; 
- Thực trạng và giải pháp củng cố, phát triển các trường ngoài công lập ngành học 
mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010 - Đề tài 
khoa học cấp thành phố năm 2006. Nội dung đề tài đó phân tích, đánh giá thực trạng các 
trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn 
Hà Nội từ khi đổi mới đến 2004 và đề xuất các giải pháp củng cố, phát triển chúng. Về thực 
trạng, đề tài đó nêu ra những kết quả đạt được của các trường ngoài công lập ngành học 
mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội như: Sự phát triển về số 
lượng các trường, số học sinh; sự phát triển về cơ sở vật chất, đổi mới nội dung, phương 
pháp giáo dục; bên cạnh đó, đề tài chỉ ra những yếu kém như: năng lực quản lý của Hội 
đồng quản trị, Hiệu trưởng, sự thiếu hụt của đội ngũ giảng viên cơ hữu; chất lượng giáo dục; 
bất cập trong quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ 
thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề tài đó đề xuất một 
loạt các giải pháp để củng cố, phát triển chúng: Thành phố có chính sách cụ thể để tạo kiện 
thuận lợi trong việc các trường thuê đất; đảm bảo sự bỡnh đẳng giữa trường công lập và 
trường dân lập; nâng cao chất lượng bộ máy làm công tác quản lý trong các trường; đổi mới 
nội dung quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ 
thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội... 
Nhỡn chung, cỏc cụng trỡnh trờn đây mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu lý luận và chỉ 
ra những tồn tại của trường ngoài công lập nói chung, chưa có công trỡnh nào trực tiếp 
nghiờn cứu về trường trung học phổ thông ngoài công lập. Vỡ thế cú thể coi đây là công 
trình đầu tiên nghiên cứu dưới góc độ quản lý nhà nước đối với trường trung học phổ thông 
ngoài công lập. 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu cơ sơ lý luận của việc QLNN bằng 
pháp luật đối với trường ngoài công lập nói chung, trung học phổ thông ngoài công lập nói 
riêng; từ đó đánh giá thực trạng của hoạt động này trong những năm qua, trên cơ sở đó đề 
xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật 
đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay. 
- Nhiệm vụ nghiên cứu: 
+ Xây dựng khái niệm và chỉ ra những đặc điểm của QLNN bằng pháp luật đối với 
trường trung học phổ thông ngoài công lập, đồng thời phân tích vai trò, nội dung của QLNN 
bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập; 
+ Nêu lên những đặc thù và những yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý 
nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập; 
+ Đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản trong QLNN 
bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở nước ta trong những 
năm qua và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó. 
+ Đưa ra những quan điểm có tính định hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm tăng 
cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt 
Nam trong giai đoạn hiện nay. 
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn 
QLNN bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập là một vấn đề rộng và phức tạp, 
bởi hiện nay, hệ thống các trường ngoài công lập đó phỏt triển khỏ đồng bộ từ mẫu giáo đến 
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung học dạy nghề, cao đẳng và đại học. 
Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý 
nhà nước bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập thuộc hệ trung học phổ thông và 
thực tiễn QLNN đối với loại hỡnh này. Các trường trung học chuyên nghiệp, trung học dạy 
nghề cũng không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển giáo dục 
nói chung, giáo dục ngoài công lập nói riêng và QLNN bằng pháp luật đối với trường trung 
học phổ thông ngoài công lập. 
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phép duy vật 
biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp: khảo sát, phân tích, tổng hợp, so 
sánh, phương pháp lịch sử cụ thể trong quá trình nghiên cứu để giải quyết vấn đề một cách 
toàn diện. 
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn 
Luận văn đã xây dựng được khái niệm: QLNN bằng pháp luật đối với đối với trường 
trung học phổ thông ngoài công lập; phân tích những đặc điểm cơ bản, vai trò, nội dung của 
QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt Nam hiện 
nay.Trên cơ sở đó nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng QLNN bằng pháp luật đối với 
trường trung học phổ thông ngoài công lập, từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm 
tăng cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt 
Nam hiện nay. 
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho 
hoạt động nghiên cứu lý luận về QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông 
ngoài công lập. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, 
giảng dạy và học tập trong các trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Đặc biệt, những kết quả đó 
có ý nghĩa góp phần tăng cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông 
ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay. 
 8. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 
chương. 
Chương 1 
Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước bằng pháp luật 
đối với trường Trung học phổ thông ngoài công lập 
1.1. khái quát về Giáo dục ngoài công lập 
1.1.1. Quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển của cỏc trường ngoài công lập 
1.1.1.1. Khái quát về trường ngoài công lập ở nước ngoài 
a. Sự hỡnh thành và phát triển trường ngoài công lập ở nước ngoài 
Trường ngoài công lập ở đây được hiểu là trường không được nhà nước thành lập, 
đầu tư và quản lý một cách toàn diện. Hiện nay, trên thế giới có nhiều tên gọi khác nhau về 
trường ngoài công lập, hơn nữa cỏc hỡnh thức tổ chức và hoạt động của loại hỡnh trường 
này cũng có nhiều nét khác nhau. 
Trong lịch sử hình thành trường học ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, những 
trường học đầu tiên xuất hiện đều do cá nhân hoặc do một tổ chức tôn giáo (nhà thờ, nhà 
chùa) thành lập và quản lý. ở giai đoạn này, nhà nước dường như chưa có vai trò gì trong 
việc hình thành trường học mà thông qua việc tổ chức các kỳ thi tuyển chọn nhân tài, cấp 
văn bằng chứng chỉ nhằm lựa chọn đội ngũ củng cố bộ máy cai trị các cấp chính quyền từ 
trung ương đến địa phương để khẳng định bàn tay của mình. 
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là khi châu Âu chuyển sang xã 
hội công nghiệp đã làm biến đổi cách thức giáo dục và quản lý. Mô hình trường làng không 
còn thích hợp nữa, khi mà người lớn đã chuyển từ lao động trên đồng ruộng sang lao động 
trong nhà máy; chuyển lao động theo thời vụ sang làm theo ca, kíp..., từ đó bắt đầu hình 
thành hệ thống trường học do Nhà nước đầu tư xây dựng và trẻ em cũng được học theo kỳ, 
theo giờ. Loại hình trường học này phát triển nhanh chóng, tồn tại song song với các loại 
hình trường ra đời trước đó và dần chiếm ưu thế, các trường ngoài công lập hầu như không 
còn tồn tại. 
Nhưng từ cuối thế kỷ XX đến nay, mô hình trường ngoài công lập trong đó có trường 
trung học phổ thông phát triển khá rộng khắp, nhất là ở những nước công nghiệp phát triển. 
Sở dĩ có tình hình đó vì không những ở những nước nghèo mà ngay ở cả những nước 
giàu, người ta cũng ý thức được rằng Nhà nước không thể có điều kiện đầu tư đầy đủ cho sự 
phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống giáo dục; muốn cho giáo dục phát triển phải 
trông cậy vào nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội. Bởi thế, giáo dục ngoài công lập nói 
chung và giáo dục trung học ngoài công lập nói riêng ngày một phát triển mạnh mẽ. Đặc 
biệt, ở những nước thuộc hệ thống XHCN trước đây, mặc dù đã tan rã hay có nhiều điều 
chỉnh căn bản đường hướng phát triển thì loại hình trường ngoài công lập đều xuất hiện khá 
nhiều ở mọi cấp học, ngành học. 
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, năm 2004, ở nước Pháp cứ 5 học sinh phổ thông 
học ở trường do nhà nước thành lập và quản lý thỡ cú khoảng 1 em theo học tại cỏc trường 
do cá nhân hoặc tổ chức xó hội đầu tư và điều hành. Riêng ở bậc đại học nước Pháp có tới 
14% sinh viên với khoảng 30% số trường ngoài công lập. 
Tại Mỹ, mói tới những năm cuối cùng của thế kỉ XIX mới xuất hiện những trường 
trung học công lập đầu tiên ở bang New York. Nhưng sau đó, hệ thống giáo dục công lập 
của nước này đó phỏt triển với tốc độ nhanh, và giáo dục trung học được coi là bắt buộc với 
mọi người, mọi tốn phí đào tạo đều do Nhà nước chi trả. Tuy vậy, đến thập niên đầu của 
thế kỉ XX, ước tính có khoảng 40% học sinh trung học của toàn nước Mỹ học ở các 
trường không phải do nhà nước xây dựng và điều hành. Và đến năm 2000 đó cú khoảng 
25 % số trường tiểu học và trung học với khoảng 11% học sinh học ở loại tr