Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng, đã được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện đối với người lao động ngay từ sau Cách mạng
tháng Tám thành công. Chính sách đó đã từng bước được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện
cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử đấu tranh thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trư ờng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách BHXH đã được Nhà nước kịp thời điều
chỉnh. Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội khóa IX thông qua tại kỳ họp thứ V ngày
25/06/1994, quy định tại chương 12 về BHXH áp dụng với người lao động ở mọi thành
phần kinh tế. Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà
nước (Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995) và đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công
nhân viên quốc phòng (Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995).
Để triển khai thực hiện chính sách, chế độ BHXH đối với người lao động theo các
Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành
lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc
ba cấp là: Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và Bảo hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam là tổ chức thu
BHXH, giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, thực hiện các hoạt động đầu tư để bảo toàn
và tăng trưởng quỹ BHXH; kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có liên quan việc sửa
đổi, bổ sung các chính sách, chế độ BHXH cho phù hợp với tình hình đất nước trong từng
giai đoạn.
Qua 5 năm hoạt động, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tăng nhanh số đối tượng tham
gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp
tăng nhanh. Tổ chức chi trả các chế độ cho người lao động tương đối kịp thời, đảm bảo ổn
định đời sống của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao
động và nghỉ hưu; góp phần làm ổn định, an toàn xã hội; tạo ra sự công bằng, dân chủ và làm
lành m ạnh các quan hệ xã hội. Quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi đã tham gia các hoạt động
đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đem lại hiệu quả tương đối tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình hoạt động đã bộc
lộ những tồn tại, hạn chế ngay trong chính sách, chế độ và tổ chức triển khai thực hiện. Vì
vậy để thực hiện đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao nhằm phục vụ ngày
càng tốt hơn đối với mọi người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH; hệ thống
Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phải tiếp tục cải tiến, hoàn thiện quản lý trên tất cả các hoạt
động của toàn ngành, đặc biệt là công tác quản lý tài chính.
Là người đã và đang tham gia trực tiếp quản lý trong lĩnh vực kế hoạch tài chính
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tôi chọn đề tài " Quản lý tài chớnh trong Bảo hiểm xó hội
Việt Nam - Thực trạng và giải phỏp " nghiên cứu để nhằm góp phần quản lý chặt chẽ và
sử dụng có hiệu quả các loại vốn, nguồn vốn và tài sản của Nhà nước, góp phần thúc đẩy
BHXHVN phát triển ổn định, vững chắc.
121 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý tài chính trong Bảo hiểm xó hội
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng, đã được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện đối với người lao động ngay từ sau Cách mạng
tháng Tám thành công. Chính sách đó đã từng bước được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện
cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử đấu tranh thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách BHXH đã được Nhà nước kịp thời điều
chỉnh. Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội khóa IX thông qua tại kỳ họp thứ V ngày
25/06/1994, quy định tại chương 12 về BHXH áp dụng với người lao động ở mọi thành
phần kinh tế. Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà
nước (Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995) và đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công
nhân viên quốc phòng (Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995).
Để triển khai thực hiện chính sách, chế độ BHXH đối với người lao động theo các
Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành
lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc
ba cấp là: Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và Bảo hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam là tổ chức thu
BHXH, giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, thực hiện các hoạt động đầu tư để bảo toàn
và tăng trưởng quỹ BHXH; kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có liên quan việc sửa
đổi, bổ sung các chính sách, chế độ BHXH cho phù hợp với tình hình đất nước trong từng
giai đoạn.
Qua 5 năm hoạt động, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tăng nhanh số đối tượng tham
gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp
tăng nhanh. Tổ chức chi trả các chế độ cho người lao động tương đối kịp thời, đảm bảo ổn
định đời sống của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao
động và nghỉ hưu; góp phần làm ổn định, an toàn xã hội; tạo ra sự công bằng, dân chủ và làm
lành mạnh các quan hệ xã hội. Quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi đã tham gia các hoạt động
đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đem lại hiệu quả tương đối tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình hoạt động đã bộc
lộ những tồn tại, hạn chế ngay trong chính sách, chế độ và tổ chức triển khai thực hiện. Vì
vậy để thực hiện đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao nhằm phục vụ ngày
càng tốt hơn đối với mọi người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH; hệ thống
Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phải tiếp tục cải tiến, hoàn thiện quản lý trên tất cả các hoạt
động của toàn ngành, đặc biệt là công tác quản lý tài chính.
Là người đã và đang tham gia trực tiếp quản lý trong lĩnh vực kế hoạch tài chính
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tôi chọn đề tài " Quản lý tài chớnh trong Bảo hiểm xó hội
Việt Nam - Thực trạng và giải phỏp " nghiên cứu để nhằm góp phần quản lý chặt chẽ và
sử dụng có hiệu quả các loại vốn, nguồn vốn và tài sản của Nhà nước, góp phần thúc đẩy
BHXHVN phát triển ổn định, vững chắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động của BHXH nói chung và quản lý tài chính BHXH nói riêng cũng đã có
những công trình được công bố như: "Thực trạng quản lý thu Bảo hiểm xã hội hiện nay và
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
mã số 96-01-01/ ĐT, chủ nhiệm đề tài là TS. Nguyễn Văn Châu; "Thực trạng và định
hướng hoàn thiện tác nghiệp chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội hiện nay", Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, mã số 96-03-03/ĐT, chủ nhiệm đề tài là TS Dương Xuân Triệu.
"Quản lý tài chính Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An", Luận văn Thạc sĩ kinh tế
của tác giả Trần Quốc Toàn - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1999... và
nhiều bài báo của nhiều nhà nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí khoa học (xem thêm phần
phụ lục các tài liệu tham khảo của luận văn). Các công trình trên đã đề cập khá nhiều vấn
đề có liên quan đến hoạt động BHXH, nhưng chưa đề cập toàn diện, chưa phân tích, đánh giá
sâu nội dung và phương thức quản lý tài chính của BHXHVN. Để thực hiện đề tài, tác giả
đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc những công trình trên, kết hợp với khảo sát thực tiễn,
phân tích, đánh giá để đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính trong
BHXHVN.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Xác định những nội dung quản lý tài chính trong BHXHVN. Phân tích
đánh giá quá trình đổi mới phương thức quản lý tài chính qua các giai đoạn, trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động BHXH và quản lý tài chính trong
BHXHVN.
- Phân tích đánh giá thực trạng quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam
để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quản lý tài chính trong BHXHVN, thời gian chủ yếu từ năm
1995 đến năm 2000.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối chủ trương chính sách của Đảng được đề ra trong các kỳ đại hội
VI, VII, VIII và IX về lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống, khái
quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề cần quan tâm.
6. Cái mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ thêm cơ sở khoa học về khái niệm, bản chất, vai trò của BHXH
cũng như vấn đề quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính trong
BHXHVN, đề xuất mục tiêu, quan điểm và những giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện quản
lý tài chính trong BHXHVN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội
và quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam
1.1. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm, bản chất bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học và được dự báo trước;
con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra do rất nhiều
nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất, hạn hán, hỏa hoạn...), tai nạn giao thông
(máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe máy...), tai nạn trong lao động sản xuất, ốm đau, dịch
bệnh... Những bất trắc, rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho con người những tổn thất, hậu
quả to lớn cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái và môi trường xã hội. Chính vì vậy
mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và khắc phục những
biến cố rủi ro đó. Những biện pháp phòng ngừa, né tránh và hạn chế rủi ro thường được
con người chủ động đưa ra các quy định cụ thể (bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết
định, thông tư...) trong từng lĩnh vực quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời
sống sinh hoạt xã hội để buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành viên trong xã hội phải
tuân thủ thực hiện. Chẳng hạn như để phòng, chống lụt bão, Nhà nước ban hành Luật về đê
điều; để đề phòng tai nạn giao thông, Nhà nước ban hành Luật Giao thông đường bộ,
đường thủy, đường hàng không...
Mặt khác, theo quy luật sinh học thì hầu như mọi người thường phải trải qua các
giai đoạn là: con người ta được sinh ra, được nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành; lao động
cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội, cho gia đình; tiếp đến là giai đoạn hết tuổi lao động
được xã hội, gia đình và lớp người tiếp theo chăm sóc cho đến khi chết. Như vậy là trong
toàn bộ cuộc đời, con người không phải lúc nào cũng có đủ sức khỏe và cơ hội lao động để
có thu nhập. Trong khi đó con người luôn luôn cần phải có những nhu cầu sinh hoạt về
mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi người lao động và xã hội cần thiết phải có một
nguồn lực tài chính dự trữ để kịp thời cung cấp đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần
không những cho bản thân mình, mà còn cho cả những người mình phải trực tiếp nuôi
dưỡng và cho những người gặp phải những biến cố rủi ro (kể cả ngẫu nhiên và tất yếu)
trong đời sống xã hội.
Thông thường người ta có hai nhóm các biện pháp khắc phục rủi ro là các biện
pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Chấp nhận rủi ro là người gặp phải rủi ro phải chấp
nhận khoản tổn thất đó, tự bản thân họ phải tự bảo hiểm cho mình. Họ có thể chủ động lập
quỹ dự trữ, dự phòng trước để bù đắp, khắc phục những tổn thất do biến cố rủi ro gây nên;
hoặc cũng có thể đi vay ngân hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn thất trong trường
hợp không lập quỹ dự trữ, dự phòng trước.
Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro giữa những
người cùng tham gia bảo hiểm trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực đã được thống
nhất và quy định trước. Nhằm đảm bảo an toàn, ổn định sản xuất và đời sống kinh tế - xã
hội của những người tham gia bảo hiểm và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là công cụ quan
trọng và có hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy ra rủi ro.
Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an toàn kinh tế cho mọi người,
mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an toàn xã hội; đồng thời tạo ra
nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện và phát triển theo cùng với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của nhân loại. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì nước Phổ (nay là Cộng
hòa Liên bang Đức) là nước đầu tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào
năm 1883, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực
hiện chính sách BHXH và coi nó là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhất
trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội. Mặc dù đã có quá trình phát triển tương đối dài,
nhưng cho đến nay còn có nhiều khái niệm về BHXH, chưa có khái niệm thống nhất.
Trong đề tài này, có thể hiểu BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất
khả năng lao động, mất việc làm, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập
trung được hình thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung
cấp tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân người lao động và những
người ruột thịt (bố, mẹ, vợ/ chồng, con) của người lao động trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp
phần đảm bảo an toàn xã hội.
Ngày 4 tháng 6 năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ban hành Công ước
số 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó có quy định 9 chế độ trợ cấp, đó
là:
1. Chăm sóc y tế;
2. Trợ cấp ốm đau;
3. Trợ cấp thất nghiệp;
4. Trợ cấp tuổi già (hưu bổng);
5. Trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;
6. Trợ cấp gia đình;
7. Trợ cấp thai sản;
8. Trợ cấp tàn tật;
9. Trợ cấp tiền tuất.
Đồng thời Tổ chức Lao động Quốc tế cũng khuyến nghị các nước thành viên phải
thực hiện ít nhất là 3 chế độ trong các chế độ nói trên. Trong ba chế độ đó thì phải có ít
nhất 1 chế độ là các chế độ 3, 4, 5, 8 và 9 [9, tr. 123-142].
1.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bất kỳ một nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự nghèo khổ của
người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp, tật nguyền bẩm sinh... gây ra không chỉ là
trách nhiệm của bản thân cá nhân, của gia đình, của những người thân của họ mà còn phải
là trách nhiệm của nhà nước và của cộng đồng xã hội.
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi là một chính
sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm bảo đảm an toàn cho sản xuất, cho
đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan
trọng nhất để quản lý xã hội, nhà nước phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho người lao động, đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa
chủ và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc và
nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền lương, về
chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi người lao động đến tuổi hưu...
Đồng thời bản thân người lao động cũng phải có trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi
trả cho bản thân mình khi có những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi như là một
người chủ sử dụng lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp
của người sử dụng lao động và người lao động không đủ để trang trải cho những khoản chi
cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có trách nhiệm dùng ngân
sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho người lao động.
Như vậy, BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh
tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì càng đòi hỏi sự
phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế hàng hóa phát triển là nền tảng, là cơ sở của
BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia
và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ
quan chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng
và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động
(bên được BHXH) và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ
điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan hệ của các bên tham gia
BHXH.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia
BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong BHXH vừa mang
tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối
với con người là thai sản (đối với lao động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này,
BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được
hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn; có nghĩa là
chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc "cộng đồng – lấy số đông bù cho số ít" tức là
dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù đắp, chia sẻ cho một
số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của từng người, khi họ gặp phải những
biến cố rủi ro gây tổn thất.
Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao; lấy
hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai
thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH đối với
người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các
nghiệp vụ thu BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các
chế độ, chính sách và chi BHXH cho người được hưởng; quản lý quỹ BHXH và thực hiện
đầu tư bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Nghiên cứu về sự giống và khác nhau giữa BHXH và bảo hiểm thương mại sẽ làm
rõ hơn bản chất của BHXH.
Bảo hiểm thương mại là biện pháp chia sẻ tổn thất về mặt tài chính của một hay
một số ít người gặp phải một hay một số loại rủi ro nào đó, được bù đắp bởi một quỹ tiền
tệ tập trung hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm cũng có khả
năng gặp phải rủi ro đó, thông qua hoạt động quản lý của các nhà kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động của bảo hiểm thương mại theo nguyên tắc có tham gia bảo hiểm mới
được hưởng quyền bảo hiểm, đó là hoạt động kinh doanh kiếm lợi nhuận của các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm, tuân thủ theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, lời ăn, lỗ chịu.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của
người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường
cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [52, tr. 9].
Bảo hiểm thương mại có những đặc điểm khác với BHXH ở một số nội dung sau:
- Phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại rất rộng, có mặt ở tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội; không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ một nước mà
còn trải rộng xuyên quốc gia. Tuy bảo hiểm thương mại có nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm
nhưng xét theo phương thức quản lý có thể chia thành hai nhóm nghiệp vụ bảo hiểm, đó là
bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.
"Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo
hiểm sống hoặc chết", "bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách
nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ" [52, tr. 11-
12]
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại là tất cả mọi đơn vị, tổ chức và mọi công
dân không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, màu da, có thu nhập hay không có thu nhập,
tình trạng sức khỏe… tự nguyện lựa chọn, tham gia bảo hiểm và phải nộp phí bảo hiểm
theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Thời hạn có hiệu lực điều chỉnh quan hệ giữa đối tượng tham gia bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm thường là có thời hạn và ngắn (một số năm hoặc theo một chu kỳ
hoạt động của đối tượng tham gia bảo hiểm); chẳng hạn như bảo hiểm tai nạn giao thông
các phương tiện vận tải thường là một năm; bảo hiểm một chuyến vận chuyển, chuyến du
lịch, bảo hiểm gieo trồng, chăn nuôi … thường là theo một chu kỳ hoạt động, kinh doanh
của đối tượng.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại có thể tự chọn các sản phẩm bảo hiểm
do các doanh nghiệp bảo hiểm bán ra, với mức được bù đắp, bồi thường theo từng mức phí
đóng góp và những điều kiện cụ thể khác của đối tượng như: tình trạng tài sản, tình trạng
về sức khỏe, giới tính, điều kiện môi trường, lao động, sinh hoạt …
- Đối tượng tham gia bảo hiểm chỉ được bồi thường thiệt hại khi xảy ra rủi ro đối
với họ. Mức độ bồi thường nhiều hay ít phụ thuộc vào mức phí đóng góp và mức độ tổn
thất thực tế được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Không có liên quan gì đến thu nhập
của họ có hay không và nhiều hay ít. Bảo hiểm thương mại chỉ bù đắp được một phần tổn
thất khó khăn tạm thời, cấp bách cho người được hưởng bảo hiểm.
BHXH và bảo hiểm thương mại có tính chất, đối tượng, phương thức và mục đích
hoạt động khác nhau, nhưng giữa chúng có những nguyên lý hoạt động mang tính phổ biến
và nhất quán, mà bất kỳ loại hình bảo hiểm nào khi hoạt động cũng phải tuân thủ, đó là:
Thứ nhất, bảo hiểm là một hình thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro, hỗ trợ lẫn
nhau giữa những đơn vị, cá nhân cùng tham gia bảo hiểm thực hiện theo nguyên tắc "cộng
đồng – lấy số đông bù cho số ít". Vì vậy, dịch vụ bảo hiểm cần phải có đông người tham
gia mới đạt được mục đích phân tán rủi ro, tổn thất. Số người tham gia bảo hiểm càng
đông thì mức độ tổn thất được phân tán càng rộng, mức độ gánh chịu tổn thất của từng
thành viên càng ít hơn. Hình thành được quỹ bảo hiểm tập trung càng lớn, mức độ an toàn
quỹ bảo hiểm càng cao, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu chi trả càn