Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, tiếp tục thực hiện đường lối được đề ra
từ Đại hội VI của Đảng, giờ đây chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới- thời kỳ
đẩy nhanh công nghhiệp hoá hiện đại hoá đất nước định hướng phát triển nhằm
mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ
câu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của Lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất là một trong những nội
dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH mà chúng ta đang tiến hành hôm
nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công
cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, là phương tiện để nước ta đi tới mục
tiêu xây dựng CNXH. Thắng lợi của CNXH ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc
vận dụng này tốt hay không.
Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự
kết hợp hài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời đại ngày nay trình
độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất của lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó.
Do vậy vấn đề về qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của Lực lượng sản xuất vẫn là một trong những vấn đề nan giải mà
chúng ta cần phải quan tâm và giải quyết.
23 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất vào công cuộc đổi mới ở Việt nam
của đảng ta hiện nay
Lời mở đầu.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, tiếp tục thực hiện đường lối được đề ra
từ Đại hội VI của Đảng, giờ đây chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới- thời kỳ
đẩy nhanh công nghhiệp hoá hiện đại hoá đất nước định hướng phát triển nhằm
mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ
câu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của Lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất là một trong những nội
dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH mà chúng ta đang tiến hành hôm
nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công
cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, là phương tiện để nước ta đi tới mục
tiêu xây dựng CNXH. Thắng lợi của CNXH ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc
vận dụng này tốt hay không.
Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự
kết hợp hài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời đại ngày nay trình
độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất của lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó.
Do vậy vấn đề về qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của Lực lượng sản xuất vẫn là một trong những vấn đề nan giải mà
chúng ta cần phải quan tâm và giải quyết.
Chương 1.
Quan đIểm toàn diện của triết học mác-xít về qui luật quan hệ Sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất riêng. đó là cách
thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạnh lịch sủ nhất
định. Phương thức sẩn xuất vật chất là sự thống nhất biện chứng của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản suất.
1.1. Lực lượng sản xuất :
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trình
độ Lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục thiên nhiên của con người trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao
động với tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.
Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, sử
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao
động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư
liệu lao động khác cần thiết cho việc chuyển, bảo quản sản phẩm .. ..
Ngoài công cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động,
phương tiện sản xuất như đường sá, cầu cống, xe cộ, bến cảng .. là yếu tố quan
trọng của Lực lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành Lực lượng sản xuất trực tiếp.
Nó vừa là ngành sản xuất riêng, vừa xâm nhập vào các yếu tố cấu thành Lực lượng
sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất của Lực lượng sản xuất. Các yếu tố cấu thành
Lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan, làm cho Lực lượng sản
xuất trở thành yếu tố động nhất.
1.2. Quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Cũng
như Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội.
Tính chất của Quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế – xã
hội. Mỗi kiểu Quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất của một hình thái kinh tế – xã
hội nhất định.
Quan hệ sản xuất gồm những mặt cơ bản sau:
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
Quan hệ tổ chức quản lý
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các quan hệ khác. Bản chất của bất
kỳ Quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ
yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra. Song nó được hình thành một cách
khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Quan hệ sản xuất mang tính chất ổn định tương đối trong bản chất xã hội và
tính phong phú đa dạng của các hình thức thể hiện.
1.3. Quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của Lực lượng sản xuất .
Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất là hai mặt của Phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình
thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người; Quy luật về sự phù
hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất vạch rõ
tính chất phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực
lượng sản xuất. Đến lượt mình Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng
sản xuất.
1.3.1. Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
Tính chất của Lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao
động. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và
tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Những công cụ sản xuất như búa, rìu,
cày, bừa .. do một người sử dụng để sản xuất ra vật dùng không cầ tới lao động tập
thể, Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có
nhiều người mới sử dụng được, đê làm một sản phẩm cần có sự hợp tác của nhiều
người, mỗi người làm một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy thì
Lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá.
Trình độ của Lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động
của kĩ thuật, trình độ kinh nghiệm, kĩ năng lao động của người lao động, qui mô sản
xuất, trình độ phân công lao động xã hội…. Trình độ Lực lượng sản xuất càng cao
thì sự phân công lao động càng tỉ mỉ. Trình độ phát triển của phân công lao động
thể hiện rõ ràng trình độ của các Lực lượng sản xuất .
1.3.2. Lực lượng sản xuất quyết định Quan hệ sản xuất.
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao
giờ cũng bắt dầu bằng sự biến đổi của Lực lượng sản xuất .
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn
con người luôn luôn tìm cáhc cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ
lao động tinh xảo hơn. Cùng vớ sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì
kinh nghiệm sản xuất , thói quen lao động kĩ năng sản xuất kiến thức khoa học của
con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng
nhất. Còn Quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khynh hướng lạc hậu hơn sự phát
triển của Lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất là nội dung là phương thức còn
Quan hệ sản xuấtlà hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức thì nội dung quyết định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội
dung thay đổi trước sau đó hình thức thay đổi theo, tất nhiên trong quan hệ với nội
dung và hình thức không phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối sự phát
triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của Lực lượng sản xuất Quan hệ sản xuất cũng hình
thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản
xuất , sự phù hợp đó là động lực làm cho Lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Nhưng Lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh còn Quan hệ sản xuất có xu
hướng ổn định khi Lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới, Quan hệ
sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt
của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan dó tất yếu dẫn đến xoá bỏ Quan
hệ sản xuất cũ thay bằng Quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
của Lực lượng sản xuất , mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển.
1.3.3. Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất .
Sự hình thành, biến đổi phát triển của Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính
chất và trình độ của Lực lượng sản xuất . nhưng Quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội mà Lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với Lực
lượng sản xuất : có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất
. Nếu Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng
sản xuất nó thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Nếu nó không phù hợp nó kìm hãm
sự phát triển của Lực lượng sản xuất , song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo
tính tất yếu khách quan , cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu Quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
Sở dĩ Quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với Lực lượng
sản xuất (thúc đẩy hoặc kìm hãm); vì nó qui định mục đích của sản xuất, qui định hệ
thống tổ chức qửan lí sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và
phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến
thái độ quảng đại quần chúng lao động- Lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hôi; nó
tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động áp
dụng những thành tựu khoa học và kĩ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao
động.
Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của Quan hệ sản
xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu Quan hệ sản xuất là một hệ
thống một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, Quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc
đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Qui luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
Lực lượng sản xuất là qui luật chung nhất của sự phát triển xã hội sự tác động của
qui luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: công xã
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Thời kì đầu trong lịnh sử là xã hội cộng sản nguyên thuỷ với Lực lượng sản
xuất thấp kém, Quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ đời sống của họ chủ yếu
phụ thuộc vào săn bắt hái lượm.
Trong quá trình sinh sống họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ
(Lực lượng sản xuất ) đến sau một thời kì Lực lượng sản xuất phát triển quan hệ
cộng đồng bị phá vỡ dàn dần xuất hiện quan hệ tư nhận. Nhường chỗ cho nó là một
xã hội chiếm hữu nô lệ, với Quan hệ sản xuất chạy theo sản phẩm thăng dư, chủ nô
muốn có nhiều sản phẩm dẫn đến bóc lột, đưa ra công cụ lao động tốt, tinh xảo vào
sản xuất, những người lao động trong thời kì này bị đối xử hết sức man rợ. Họ là
những món hành trao đi đổi lại, họ lầm tưởng do những công cụ lao động dẫn đến
cuộc sống khổ cực của mìnhnên họ đã phá hoại Lực lượng sản xuất , những cuộc
khởi nghĩa nô lệ diễn ra khắp nơi.
Chấm dứt chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến ra đời, xã hội
mới ra đời giai cấp thời kì này là địa chủ, thời kì đầu giai cấp địa chủ nới lỏng hơn
chế độ trước, người nông dân có ruộng đất, tự do thân thể .
Cuối thời kì phong kiến xuất hiện những công trường thủ công ra đời và đẫn
tới Lực lượng sản xuất mau thuẫn với Quan hệ sản xuất, cuộc cách mạng tư sản ra
đời chế độ tư bản thời kì này chạy theo giá trị thặng dư và lợi nhuận họ đưa ra
những kĩ thuật mới những công cụ sản xuất hiện đại áp dụng vào sản xuất thời kì
này Lực lượng sản xuất mang tính chất cục kì hoá cao và Quan hệ sản xuất là quan
hệ sản xuất tư nhân về tư liệu sản xuất nên dẫn tới cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư
sản và vô sản nổ ra xuất hiện một số nước chủ nghĩa xã hội . Chủ nghĩa xã hội ra
đời quan tâm đến xã hội hoá công hữu nhưng trên thực tế chủ nghĩa xã hội ra ddời ở
các nước chưa qua thời kì tư bản chủ nghĩa chỉ có Liên Xô là qua thời kì tư bản
chue nghĩa nhưng chỉ là chủ nghĩa tư bản trung bình.
Qui luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
Lực lượng sản xuất là quy luật vận động phát triển của xã hội qua sự thay thế kế
tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất.
1.3.4. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Khi trình độ Lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là
tính chất cá nhân. Nó Thể hiện ở chỗ chỉ một người có thể sử dụng được nhiều công
cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm .Như vậy, tất yếu dẫn đến
quan hệ sản xuất sở hữu tư nhân (nhiều hình thức )về tư liệu sản xuất .
Khi sản xuất bằng máy ra đời, trình độ Lực lượng sản xuất công nghiệp thì
một người không thể sử dụng được nhiều mà chỉ một công cụ,hoặc một bộ phận
,chức năng. Như vậy, quá trình sản xuất phải nhiều Người tham gia, sản phẩm lao
động là thành quả của nhiều người. ở đây, Lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội
hoá. Và tất yếu một Quan hệ sản xuất thích hợp phải là Quan hệ sản xuất sở hữu về
tư liệu sản xuất. Ănghen viết: “Giai cấp tư sản không thể biến tư liệu sản xuất có
tính chất hạn chế ấy thành Lực lượng sản xuất mạnh mẽ được nếu không biến
nhuững tư liệu sản xuất của cá nhân thành những tư liệu sản xuất có tính chất xã hội
mà chỉ một số người cùng làm mới có thể sử dụng được”.
Quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất biểu hiện
ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến
đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của Lực lượng sản xuất
mà trước hết là công cụ. Công cụ phát triển đến mâu thuẫn gay gắt với Quan hệ sản
xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ Quan hệ sản xuất cũ thay
bằng Quan hệ sản xuất mới. Như vậy, Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển
của Lực lượng sản xuất (ổn định tương đối), Quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích
kìm hãm sự phát triể của Lực lượng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp và không
phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của Lực lượng sản xuất và Quan hệ
sản xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với Lực lượng sản xuất, Quan hệ
sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với Lực lượng sản xuất, thể hiện trong nội
dung sự tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của
sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố
hoặc thúc đẩy, hoặec kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại nói trên của Quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các
quy luật kinh tế cơ bản.
Phù hợp và không phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất là
khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất. Sẽ không đúng nếu quan
niệm trong Chủ nghĩa tư bản (CNTB) luôn luôn diễn ra “không phù hợp”, còn dưới
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) “phù hợp” giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất.
1.4. CNTB dưới ánh sáng của quy luật về sự thích ứng giữa Quan hệ sản
xuất và Lực lượng sản xuất.
Những năm trước đây, khi nói đến mối quan hệ sản xuất TBCN và Lực
lượng sản xuất của nó, người ta thường nhấn mạnh rằng Lực lượng sản xuất đã phát
triển cao độ tới mức mà khuôn khổ chật hẹp của Quan hệ sản xuất TBCN không thể
chứa đựng nổi nữa; rằng mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của quá trình sản xuất với
hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN tất yếu trở nên gay gắt tới cực độ, đòi hỏi phải
thay thế chế độ tư hữu TBCN bằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. CNTB lúc
đầu còn là phương thức sản xuất tiến bộ trong lịch sử so với phương thức sản xuất
phong kiến, đến nay đã trở thành phản động, kìm hãm sự phát triển của xã hội loài
người không còn lý do gì để tồn tại nữa.
Nhưng bước vào những năm đầu của thập kỷ 80 đến nay, CNTB lại đang
chứng tỏ một sức sống mới. Phải chăng sau những cơn khủng hoảng, CNTB đã tìm
được một liều thuốc hồi sinh? Năng suất lao động, nhịp độ phát triển kinh tế của các
nước tư bản tăng rõ rệt, trong thời gian tới còn hứa hẹn một sự tăng trưởng mạnh
mẽ hơn nữa.
Quy luật về sự thích ứng giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất, tìm
ra những điều chỉnh của CNTB về Quan hệ sản xuất có thể thích ứng được với sự
phát triển của Lực lượng sản xuất xã hội.
Nhờ những điều chỉnh này, CNTB không những không kìm hãm sự phát
triển của Lực lượng sản xuất, mà còn thúc đẩy, tạo điều kiện cho nó phát triển mạnh
mẽ hơn nữa. Đồng thời, những điều chỉnh đó cũng làm biến đổi bản thân Lực lượng
sản xuất, đặc biệt là những biến đổi của đội ngũ giai cấp công nhân “ Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại..” ở các nước TBCN, làm cho cuộc đấu
tranh giai cấp công nhân hiện đại trở nên phòng phú hơn, đa dạng hơn, xuất hiện
những trở ngại mới trên con đường đi tới mục tiêu xoá bỏ sự bóc lột của giai cấp tư
sản.
Về sự điều chỉnh của CNTB đối với Quan hệ sản xuất, cần thấy rằng quá
trình điều chỉnh diễn ra ở tất cả các yếu tố, trong hệ thống quan hệ sản xuất TBCN.
Những điều chỉnh ở lĩnh vực, các khía cạnh khác nhau của Quan hệ sản xuất đã tác
động, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau, tổng hợp lại tạo ra sự thích ứng phù hợp cuae
Quan hệ sản xuất TBCN đối với Lực lượng sản xuất xã hội, thúc đẩy sự phát triển
của Lực lượng sản xuất, tạo ra những biến đổi mới trong Lực lượng sản xuất. CNTB
đã tỏ ra là còn có thể tạo điều kiện cho sự phát triển hơn nữa của Lực lượng sản
xuất và do đó có những cơ sở mới cho sự tồn tại của mình. Tình hình đó đã xác
minh cho tính đúng đắn của quan hệ Mác-xít “không một chế độ xã hội nào lại diệt
vong khi tất cả những Lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo ra địa bàn đầy đủ
cho phát triển vẫn còn chưa phát triển”.
Trưúc hết, chúng ta xem xét những điều chỉnh trong quan hệ sử dụng của
CNTB. Trong các nước chủ nghĩa tư bản hiện nay đã áp dụng chế độ “Sở hữu xã
hội” dưới dạng cổ phiéu để dần dần thay thế cho chiếm hữu cá thể và chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Có thể nói đây là một trong những hình thức quan trọng
nhất trong Quan hệ sở hữu để phần nào phù hợp, thích ứng với tính chất xã hội hoá
cao của Lực lượng sản xuất.
Người lao động công nhân làm thuê có thể được mua cổ phần của công ty ,
xí nghiệp như vậy họ đã trở thành những người đồng sở hữu công ty, xí nghiệp đó,
có thể cùng tham dự chia sẻ lợi nhuận. Sở hữu cổ phần trở thành biện pháp xã hội
hoá sở hữu hoặc một sự phân tán sở hữu, không thể cho tư liệu sản xuất tập trung
trong tay một số ít người, hoặc thuộc một công ty độc quyền nào đó.
Mặt khác việc trở thành đồng sở hữu sản xuất được hưởng một phần lợi
nhậun cũng làm cho người công nhân quan tâm đến qúa trình sản xuất, chú ý đến
việc tăng năng suất lao động đẩy nhanh sự phát triển của Lực lượng sản xuất hơn
nữa. Đồng thời, đây cũng là một sợi dây cột chặt lợi ích của hàng triệu người lao
động vào lợi ích của tư bản. nhưũng người công nhân có cổ phiếu thường tách khỏi
các tổ chức chính trị đoàn thể của giai cấp công nhân. Từ đó dung hoà được sự xung
đột giữ người lao động và nhà tư bản.
Một xu hướng khách cho việ điều chỉnh Quan hệ tỏ chức quản lý điều hành
quá trình sản xuất xã hội của CNTB để thích ứng với trình đoọ xã hội hoá ngày
càng cao của Lực lượng sản xuất là tăng dần tính linh hoạt của tổ chức sản xuất.
Nhờ áp dụng kĩ thuật mới đặc biệt là phương tiện điều khiển bằng điện tử
nền sản xuất trong chế đoọ tư bản ngày nay đã có khả năng nhanh chóng đáp ứng
đòi hỏi của thị trường dễ dàng thích nghi với nhu cầu của người tiêu dùng. Và như
thế vòng quay của quá trình sản xuất mở rộng TBCN sẽ nhanh hơn, nền sản xuất xã
hội sẽ càng được thúc đẩy phát triển nhanh chong.
Một điểm cần chú ý tới việc điều chỉnh quan hệ tổ chức quản lý điều hành
quá trình sản xuất xã hội của CNTB ngày nay là sự giao kết chặt chẽ giữa lĩnh vực
sản xuất với lĩnh vực nghiên cứu, phát