ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), Luật Ngân sách Nhà
nước Lào ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 14/4/1995 đã quy định thu ngân sách Nhà
nước (NSNN) là một hệ thống thống nhất bao gồm thu ngân sách Trung ương (NSTW) và thu
ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Ngân sách tỉnh là một cấp trong ngân sách các cấp chính quyền địa phương được Nhà
nước phân cấp nguồn thu theo chức năng quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh ở Lào còn nhiều bất cập.
Để thu ngân sách cấp tỉnh trở thành một cấp thu ngân sách theo đúng nghĩa, cần
phải tìm những giải pháp hữu hiệu trong công tác tăng cường quản lý nhằm hoàn thiện việc
thu ngân sách cấp tỉnh, đó là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Vì vậy, tôi đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài: "Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn)" cho bản luận văn thạc sĩ của mình.
79 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tăng cường quản lý thu ngân sách địa
phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn)
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), Luật Ngân sách Nhà
nước Lào ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 14/4/1995 đã quy định thu ngân sách Nhà
nước (NSNN) là một hệ thống thống nhất bao gồm thu ngân sách Trung ương (NSTW) và thu
ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Ngân sách tỉnh là một cấp trong ngân sách các cấp chính quyền địa phương được Nhà
nước phân cấp nguồn thu theo chức năng quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh ở Lào còn nhiều bất cập.
Để thu ngân sách cấp tỉnh trở thành một cấp thu ngân sách theo đúng nghĩa, cần
phải tìm những giải pháp hữu hiệu trong công tác tăng cường quản lý nhằm hoàn thiện việc
thu ngân sách cấp tỉnh, đó là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Vì vậy, tôi đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài: "Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn)" cho bản luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu hoạt động của thu ngân sách cấp tỉnh trong mối quan hệ
với hệ thống thu NSNN nhằm tìm ra những giải pháp thích hợp hướng cho ngân sách tỉnh phát
huy được vai trò tích cực của mình, góp phần tăng cường công tác quản lý thu ngân sách ở
Lào ngày một tốt hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chung về quản lý thu ngân sách cấp tỉnh trong toàn quốc và quản lý
thu Ngân sách cấp tỉnh của tỉnh Viêng Chăn trong thời gian 5 năm từ năm 2000 đến kế
hoạch dự đoán năm 2005.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu việc quản lý thu ngân sách cấp tỉnh.
- Nghiên cứu mối quan hệ thu ngân sách cấp tỉnh với thu ngân sách các cấp trong
hệ thống.
- Nghiên cứu quy trình lập, chấp hành và quyết toán trong việc tăng cường quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể khái quát trên các khía cạnh:
- Về mặt lý thuyết: Luận văn đã hệ thống hóa và khái quát về mặt lý luận một số
vấn đề cơ bản quản lý thu NSNN.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn đã đưa ra những nhận xét khách quan về thực trạng
quản lý thu NSNN ở CHDCND Lào trong những năm qua.
- Về các đề xuất kiến nghị: Luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường quản lý thu NSNN ở CHDCND Lào trong những năm tới.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách tài chính công ở
CHDCND Lào hiện nay, những kết quả nghiên cứu trên đây của luận văn là có ý nghĩa
thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Vai trò của thu NSNN và tổ chức hệ thống quản lý thu ngân sách cấp
tỉnh.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước ở cộng hòa dân
chủ nhân dân lào (Ví dụ ở Tỉnh Viêng Chăn).
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý thu ngân sách Nhà nước ở CHDCND
Lào (ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn).
Chương 1
Vai trò của thu ngân sách nhà nước và tổ chức
hệ thống quản lý thu ngân sách cấp tỉnh
1.1. Những vấn đề chung về thu ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thu ngân sách nhà nước
Khi Nhà nước ra đời, để đảm bảo sự tồn tại và hoạt động của mình, Nhà nước đã
đặt ra chế độ thuế khóa nhằm huy động sự đóng góp của dân cư để hình thành nên quỹ tiền
tệ tập trung của Nhà nước. Lúc đầu, Nhà nước sử dụng nó để nuôi bộ máy nhà nước; sau
đó phạm vi sử dụng được mở rộng dần theo sự phát triển của các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước. Ngày nay, Nhà nước còn sử dụng NSNN để chi tiêu cho các khoản phúc lợi xã
hội và phát triển kinh tế. Do vậy, hệ thống thu NSNN ngày càng được hoàn thiện.
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà
nước.
Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN là những khoản thu nhập của Nhà nước
được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình
thức giá trị. Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân phối
các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Sự phân phối đó
là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước
cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Về mặt nội
dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh trong
quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình
thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá
trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực trừng trị để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Một đặc điểm nữa của thu NSNN là gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động
của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập… Sự vận động của các phạm trù đó
vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của
các công cụ thu NSNN.
1.1.2 Nội dung thu ngân sách nhà nước và phân loại thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
- Thuế, lệ phí, phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước như:
+ Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế.
+ Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế.
+ Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp.
- Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
- Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn trả lại của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân nước ngoài, từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.
- Thu khác: như thu từ phạt, tịch thu, tịch biên lai tài sản…
Trong hệ thống thu NSNN, thu từ thuế, lệ phí, phí chiếm tỷ trọng chủ yếu. Vì vậy
để tăng thu NSNN cần có biện pháp ngăn ngừa hạn chế thất thu thuế giữ vai trò quan
trọng.
Để quản lý tốt nguồn thu việc phân loại các khoản thu có ý nghĩa quan trọng qua
đó có thể phân tích, đánh giá và quản lý các nguồn thu NSNN. Có hai cách phân loại phổ
biến là:
- Phân loại theo nội dung kinh tế:
Phân loại các khoản thu NSNN theo nội dung kinh tế là cần thiết để thấy rõ sự
phát triển của nền kinh tế, tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo cách phân loại này, có thể
chia các khoản thu NSNN thành hai nhóm:
+ Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc gồm thuế, phí, lệ phí với nhiều
hình thức cụ thể do luật định.
+ Nhóm thu không thường xuyên bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh tế của
Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước và các khoản thu khác đã kể ở trên.
- Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN:
Có thể chia các khoản thu NSNN thành:
+ Thu trong cân đối NSNN: bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu không
thường xuyên.
+ Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi
tiêu và Nhà nước phải đi vay, bao gồm vay trong nước từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức
kinh tế - xã hội, vay từ nước ngoài.
Cách phân loại này cho phép đánh giá sự lành mạnh của NSNN và có ý nghĩa
trong tổ chức điều hành NSNN.
1.1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức động viên và
lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến số thu
NSNN, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Mức động viên
và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của
quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN cần phải kể đến là:
Thu nhập GDP bình quân đầu người.
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia,
phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân
đầu người là nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN. Nếu không tính đến chỉ
tiêu này khi xác định mức động viên của ngân sách sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề
tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các tầng lớp dân cư.
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế:
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh
tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn, nguồn tài chính càng lớn. Đây là nhân tố quyết định đến
việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Dựa vào tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu NSNN sẽ tránh
được việc động viên quá cao vào NSNN gây khó khăn về tài chính cho hoạt động kinh tế.
Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên:
Đối với các nước đang phát triển và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú thì
nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến thu NSNN. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu tỷ
trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu thì tỷ suất thu
NSNN sẽ cao và có khả năng tăng nhanh. ở Việt Nam trong tương lai, việc xuất khẩu dầu
mỏ và khoáng sản chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Đó là nhân tố rất quan
trọng ảnh hưởng to lớn đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước:
Nhân tố này phụ thuộc vào:
+ Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó.
+ Những nhiệm vụ kinh tế – xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ.
+ Chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước.
Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước không có khả năng
tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ dẫn đến tỷ suất thu NSNN tăng lên.
ở hầu hết các nước đang phát triển, Nhà nước đều có tham vọng đẩy nhanh sự tăng
trưởng kinh tế bằng việc đầu tư vào các công trình lớn. Để có nguồn vốn đầu tư phải tăng thu.
Nhưng trong thực tế tăng thu quá mức lại làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại. Để giải quyết
vấn đề nan giải đó, Nhà nước phải có một chương trình phát triển kinh tế, xã hội thận trọng
trên cơ sở khoa học và thực tiễn để đạt hiệu quả cao, từ đó xác lập một chính sách chi có hiệu
quả và tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thu và chi của
NSNN.
Tổ chức bộ máy thu nộp.
Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do trốn,
lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của NSNN.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, để xác định mức thu NSNN đúng đắn cần
phải có sự phân tích, đánh giá cụ thể các nhân tố tác động đến nó trong những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ. Tỷ suất thu NSNN được xem
là hạt nhân cơ bản của chính sách thu nên cần phải được nghiên cứu, xem xét trên
nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội.
1.2 Tổ chức quản lý thu ngân sách cấp tỉnh
Căn cứ chức năng quyền hạn của chính quyền địa phương, Nhà nước phân cấp cho
địa phương được hưởng các nguồn thu tương ứng theo phương pháp phân định như sau:
Quá trình hình thành nguồn thu ngân sách ở Lào bắt đầu và phân cấp quản lý sau
Cách mạng Tháng 8. Lúc đó Lào hầu như chỉ có một cấp ngân sách là NSTW. Do cấp tỉnh
chưa đảm đương được đầy đủ chức năng là một cấp thu ngân sách hoàn chỉnh, nên chủ yếu
thực hiện theo chỉ định từ Trung ương. Đến khi luật Ngân sách ngày 18/7/1944, số
0594/QH Lào và Luật Thuế ra đời mới ổn định nguồn thu và đảm bảo nhiệm vụ chi cho
địa phương, từ đó hình thành nguồn thu của ngân sách địa phương (NSĐP).
1.2.1. Các khoản thu cố định
Đây là các khoản thu phát sinh bao nhiêu thì ngân sách tỉnh được hưởng trọn vẹn bấy
nhiêu (100%). Theo kinh nghiệm Việt Nam trong Luật NSNN hiện hành quy định thì các
khoản thu cố định của ngân sách tỉnh gồm có:
- Tiền cho thuê đất
- Tiền thuê và bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước
- Lệ phí trước bạ
- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức cá nhân cho cấp tỉnh
- Phí, lệ phí và thu khác ngân sách tỉnh
- Các khoản đóng góp vào ngân sách cấp tỉnh
- Thu kết dư ngân sách cấp tỉnh
1.2.2. Các khoản thu phân định giữa các cấp ngân sách
Đối với các khoản thu này, hiện nay trên thế giới phổ biến có 2 mô hình:
Mô hình 1: Các khoản thu được tập trung vào NSNN thông qua Kho bạc Nhà nước
(KBNN), sau đó phân chia cho các cấp theo những tỷ lệ phần trăm nhất định, được gọi là
thu điều tiết. Các nước theo mô hình này là Trung Quốc, Việt Nam…
Luật Ngân sách hiện hành của Việt Nam quy định các khoản thu điều tiết giữa
NSTW và ngân sách cấp tỉnh là:
- Thuế giá trị gia tăng (không kể thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu).
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập doanh nghiệp các đơn vị
hạch toán toàn ngành).
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Tỷ lệ điều tiết ở đây, theo Luật NSNN do Trung ương quy định cụ thể cho từng
tỉnh và được ổn định từ 3 – 5 năm.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh, ngân sách
cấp huyện, ngân sách xã phường, thị trấn:
- Thuế chuyển quyền áp dụng đất.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước của một số mặt hàng phân chia
cho địa phương.
Tỷ lệ điều tiết cho mỗi cấp ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, theo
Luật NSNN hiện hành do tỉnh quy định. Riêng tỷ lệ điều tiết thuế sử dụng đất nông nghiệp
để lại cho xã, phường, thị trấn tối thiểu là 20%.
Mô hình 2: Mỗi khoản thu phát sinh thì NSTW thu một phần và NSĐP thu một
phần. Phổ biến nhất là các khoản thuế giá trị gia tăng (GTGT), Thu nhập doanh nghiệp
(TNDN), thu nhập cá nhân… (Thường luật Thuế do Nhà nước Trung ương ban hành và quy
định biểu thuế cho NSTW, sau đó cho phép các địa phương có biểu thuế riêng tương ứng.
Thông thường Chính phủ Trung ương quy định khung thuế suất với mức thấp nhất và mức
cao nhất). Các địa phương vận dụng trong khung đó. Biểu thuế địa phương này có 2 dạng
phổ biến:
Thứ nhất, là biểu thuế địa phương lũy tiến theo mức cố lũy tiến của biểu thuế
Trung ương.
Thứ hai, là biểu thuế địa phương chỉ áp dụng một mức cố định cho mọi thu nhập
chịu thuế. Trên biên lai thuế có những tiêu thức sau:
Thu nhập chịu thuế: Được xác định theo quy định của Luật Thuế.
Thuế NSTW: x% x Thu nhập chịu thuế.
Thuế NSĐP: y% x Thu nhập chịu thuế.
Tổng số thuế phải nộp: Gồm cả thuế của NSTW và NSĐP.
Ví dụ: ở Nhật Bản, khung thuế suất do Quốc hội quy định từ 12 – 15% thì Hội
đồng nhân dân địa phương có thể quy định cụ thể một mức nào đó trong khung nhưng tối
đa không quá 15%. Căn cứ vào quyết định của Hội đồng nhân dân (HĐND), từng địa
phương tiến hành thu thuế về cho cấp mình.
ở Canađa, thuế GTGT thu cho NSTW là 8%, còn thu cho NSĐP được phép không
quá 7%.
Nhận xét:
Hai mô hình đều có những ưu điểm nhất định. ở mô hình thứ nhất các khoản thu
được tập trung vào ngân sách, sau đó điều tiết cho các cấp sẽ tạo ra biểu thuế thống nhất
trong toàn quốc, từ đó nghĩa vụ nộp thuế cũng thống nhất trong toàn quốc, không phân biệt
giá cả giữa các vùng, miền. Việc điều tiết chỉ là phân chia trong nội bộ ngân sách, vì vậy
Chính phủ Trung ương có thể chủ động quy định tỷ lệ điều tiết khác nhau cho các địa
phương.
ở mô hình thứ hai có ưu điểm là địa phương có thể chủ động quy định một thuế
suất trong khung phù hợp với địa phương mình. Cùng xuất phát từ điều đó làm cho mỗi
địa phương có thể có một tỷ lệ thuế khác nhau, dẫn đến mỗi vùng miền, địa phương có
nghĩa vụ nộp thuế khác nhau và giá cả hàng hóa cũng khác nhau. Đây chính là điểm linh
hoạt trong chính sách thuế, thuế có thể trở thành công cụ điều tiết phân bổ dân cư, kinh tế.
Cụ thể là để giảm bớt thuế thu nhập cá nhân, người dân có thể chuyển đến sinh sống ở địa
phương có biểu thuế địa phương thấp. Tương tự như vậy, các cá nhân và tổ chức muốn
giảm thuế thu nhập, thuế GTGT để nhằm mục đích tăng lợi nhuận có thể tổ chức kinh
doanh hoặc di chuyển địa điểm kinh doanh và vốn tới địa phương có biểu thuế địa phương
thấp…
Các mô hình thuế nêu trên có thể được lựa chọn áp dụng ở các quốc gia khác nhau
phụ thuộc vào phân cấp kinh tế xã hội và hành chính của từng quốc gia, các yếu tố chính
trị và đặc điểm của hệ thống thuế.
Với mô hình thứ nhất thì đòi hỏi sự chia xẻ trách nhiệm của cả các cấp chính quyền
từ Trung ương đến địa phương. Bởi vì nguồn thu được điều tiết cho các cấp, nên việc tổ
chức bộ máy thu thống nhất do Trung ương quản lý để phối hợp với chính quyền địa phương
trong công tác thu sẽ phát huy được hiệu quả.
Với mô hình thứ hai cho phép địa phương tự quyết định mức trong khung thuế địa
phương, tạo động lực cho địa phương tự tìm kiếm nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi tăng
thêm ở địa phương thích hợp với cách tổ chức bộ máy thu riêng cho từng cấp.
1.2.3. Các khoản thu bổ sung từ ngân sách Trung ương
Ngoài các khoản thu cố định và điều tiết, một khoản thu rất quan trọng đối với
ngân sách tỉnh là thu bổ sung từ ngân sách cấp trên. Đây là một biện pháp điều hòa ngân
sách nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, đồng đều của tất cả các vùng, miền.
Căn nguyên thứ nhất của biện pháp này xuất phát từ sự tách rời giữa nơi sáng tạo
GDP và nơi thực hiện GDP. Chúng ta đều biết rằng nguồn thu từ thuế do GDP tạo ra ở một
địa phương nào đó, nhưng bằng biện pháp bổ sung NSĐP có thể thụ hưởng từ một địa
phương khác. Ví dụ: Một doanh nghiệp thu mua hàng nông sản xuất khẩu đăng ký hoạt
động ở địa phương A. Khi thu mua hàng thì doanh nghiệp phải nộp thuế GTGT với thuế
suất 2% mặc dù nơi sản xuất ra hàng nông sản đó có thể là ở một địa phương B.
Như vậy, điều bất hợp lý có thể xảy ra, đó là nơi sáng tạo ra nhiều GDP lại có thể
có nguồn thu nhỏ, trong khi nơi không tạo ra nhiều GDP nhưng vẫn có nguồn thu lớn.
Ví dụ: Theo thống kê chưa chính thức, năm 2001, Thành phố Hồ Chí Minh chỉ tạo ra
khoảng 9% GDP của cả nước nhưng đã có số thu ngân sách trên địa bàn chiếm gần 40% tổng
thu NSNN trong nước. Nguyên nhân chính là GDP được tạo ra từ đồng bằng sông Cửu Long,
Tây Nguyên… nhưng phần lớn đổ
dồn về thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. ở Hà Nội tình hình cũng tương tự như vậy.
Thứ hai là xuất phát từ vị trí địa lý kinh tế xã hội không đồng đều giữa các địa
phương: Các vùng núi cao, Biên giới, Hải đảo, kinh tế không phát triển nhưng lại có vị trí
đặc biệt quan trọng, đó là vùng phên dậu của đất nước, nếu không được bảo vệ chắc chắn
sẽ ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định của cả Quốc gia. Vì vậy, mặc dù có thể không sáng
tạo và thực hiện nhiều GDP nhưng phải điều hòa nguồn lực tài chính đến những vùng như
vậy.
Thứ ba là trong cơ chế chính sách của Trung ương về phân định nguồn thu và
nhiệm vụ chi của NSTW có phần muốn tạo ra sự mất cân đối của NSĐP (thu không đủ chi)
nhằm kiểm soát và chi phối các hoạt động của địa phương. Điều đó giải thích tại sao ngay
cả các địa phương có thể tự cân đối được thu chi cũng được phân cấp sao cho Trung ương
vẫn phải bổ sung một số chương trình mục tiêu. Ví dụ: ở Trung Quốc, số bổ sung từ
NSTW cho địa phương thường chiếm 20% tổng số thu; ở Nhật Bản, việc trợ cấp từ Trung
ương cho các tỉnh cũng nhằm hỗ trợ các dự án cụ thể…
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngân sách cấp tỉnh với các cấp ngân sách khác
Trước hết, cần phải khẳng định ngân sách tỉnh là một cấp ngân sách trong hệ
thống NSNN thống nhất, nên nó có mối quan hệ hữu cơ với các cấp ngân sách khác.
1.2.4.1. Mối quan hệ giữa ngân sách tỉnh với ngân sách trung ương
Chế độ thu ngân sách được quy định thống nhất trong toàn quốc, mọi nguồn thu
đều được tập trung vào NSNN sau đó điều tiết theo tỷ lệ quy định cho từng tỉnh.
Sau khi dự toán thu ngân sách tỉnh được xây dựng và giao chính thức, Trung ương
sẽ căn cứ vào đó để xác định số bổ sung ngân sách tỉnh hàng năm và từng quý chuyển đến
cho NSĐP.
Ngoài những nội dun