Trong các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vốn là rất quan trọng,
nhiều khi mang tính quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả là chìa
khóa thành công cho sự phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế còn đang
phát triển.
Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, những năm qua, tỉnh Nghệ An có nhiều cố
gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập
môi trường thuận lợi … để thu hút vốn đầu tư. Nhờ đó, số lượng vốn đầu tư cả trong và
ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư không ngừng tăng lên. Kết
quả hoạt động từ các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng vào việc tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế môt cách tích cực, đúng hướng. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, từ các tỉnh, thành phố ngoài tỉnh thật sự đã trở thành một bộ phận cấu thành
của nền kinh tế địa phương. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “...
Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, đồng thời coi trọng
huy động các nguồn ngoại lực; thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn...” [8, tr.71]. Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lần thứ XVI, Nhiệm kỳ 2005 – 2010 cũng đã tiếp tục nhấn mạnh: “… Có chính sách huy
động mọi nguồn vốn từ trong dân, từ ngoại tỉnh, từ nước ngoài, từ ngân sách… cho đầu tư
phát triển .. Vận dụng các quy định của pháp luật , ban hành các cơ chế, chính sách
ưu đãi, thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư” [30, tr.80]. Tuy vậy, so với nhiều địa
phương khác và đặc biệt là so với nhu cầu vốn đầu tư để góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh, thì hoạt động thu hút đầu tư ở Nghệ An còn
nhiều yếu kém, bất cập.
Việc phân tích khoa học, tìm nguyên nhân và đề ra các giải pháp cơ bản để thu hút được
nhiều vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước vào Nghệ An trong
thời gian tới là m ột nhiệm vụ cần thiết, cấp bách.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế
của mình.
75 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2235 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vốn là rất quan trọng,
nhiều khi mang tính quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả là chìa
khóa thành công cho sự phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế còn đang
phát triển.
Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, những năm qua, tỉnh Nghệ An có nhiều cố
gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập
môi trường thuận lợi … để thu hút vốn đầu tư. Nhờ đó, số lượng vốn đầu tư cả trong và
ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư không ngừng tăng lên. Kết
quả hoạt động từ các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng vào việc tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế môt cách tích cực, đúng hướng. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, từ các tỉnh, thành phố ngoài tỉnh thật sự đã trở thành một bộ phận cấu thành
của nền kinh tế địa phương. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “...
Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, đồng thời coi trọng
huy động các nguồn ngoại lực; thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn...” [8, tr.71]. Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lần thứ XVI, Nhiệm kỳ 2005 – 2010 cũng đã tiếp tục nhấn mạnh: “… Có chính sách huy
động mọi nguồn vốn từ trong dân, từ ngoại tỉnh, từ nước ngoài, từ ngân sách… cho đầu tư
phát triển .. Vận dụng các quy định của pháp luật , ban hành các cơ chế, chính sách
ưu đãi, thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư” [30, tr.80]. Tuy vậy, so với nhiều địa
phương khác và đặc biệt là so với nhu cầu vốn đầu tư để góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh, thì hoạt động thu hút đầu tư ở Nghệ An còn
nhiều yếu kém, bất cập.
Việc phân tích khoa học, tìm nguyên nhân và đề ra các giải pháp cơ bản để thu hút được
nhiều vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước vào Nghệ An trong
thời gian tới là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động đầu tư nói chung đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập ở nhiều khía
cạnh hay giác độ khác nhau. Những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu, một số
bài viết xung quanh vấn đề: Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển; thu hút và quản lý
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay nghiên cứu hoạt động thu hút đầu tư vào KCN,
KCX… Đáng chú ý một số công trình sau:
+ Tống Quốc Đạt (2004): “Những giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” Luận án Tiến
sỹ, chuyên ngành Quản lý và KHH nền KTQD
+ Nguyễn Đẩu (2005): “Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển thành phố Đà
Nẵng” Luận án Tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý Kinh tế
+ Nguyễn Văn Thành (2006): “Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An
hiện nay” Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị
+ Nguyễn Văn Oánh: “Cải thiện môi trường đầu tư, bắt đầu từ đâu?” Bài đăng trên
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 1/2006
+ Vũ Thành Tự Anh: “Cạnh tranh xé rào hay cuộc chạy đua xuống đáy” Thời báo
Kinh tế Sài Gòn tháng 3/2006
+ Lê Khoa: “Vài suy nghĩ về chính sách thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 5/2007.
+ Nguyễn Hoài Long: “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của địa phương
trong việc thu hút đầu tư”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008.
+ Nguyễn Thế Vinh: “Phát huy lợi thế so sánh tạo bước đột phá phát triển Kinh tế -
Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008.
Hầu hết các công trình khoa học này tập trung nghiên cứu dưới giác độ thu hút, quản
lý, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp trong nước hoặc nước ngoài vào một địa phương cụ thể,
vào các khu công nghiệp, tìm ra những khó khăn, thách thức hoặc các giải pháp để thu hút
và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu.
Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có khoa học nào nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư
trực tiếp vào Nghệ An cho tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách có hệ thống dưới
giác độ của một luận văn hay luận án chuyên ngành quản lý kinh tế. Do vậy, việc nghiên
cứu thực trạng và đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp cho phát
triển kinh tế ở Nghệ An hiện nay là vấn đề rất cần thiết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu:
Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp
vào các quốc gia, vùng lãnh thổ nói chung, địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng, đề xuất các
giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về quản lý kinh tế nhằm tăng cường thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước vào
địa bàn tỉnh Nghệ An trong những năm tới.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, vốn đầu tư, thu hút vốn đầu
tư, cơ chế quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào các quốc gia, vùng lãnh thổ.
- Làm rõ nội dung thu hút vốn đầu tư trực tiếp, tổng thuật kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư
trực tiếp cho phát triển kinh tế ở một số tỉnh, thành trong nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở Nghệ An thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút và
quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư FDI, đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư
trong nước vào Nghệ An; môi trường đầu tư, các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp
vào các địa phương và tỉnh Nghệ An.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2001 đến nay.(Bao gồm: Vốn FDI,
đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh) và phương hướng, giải pháp cơ bản để đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp giai đoạn 2008-2010, có tính đến năm 2015 và năm
2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn được dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, những lý luận kinh tế về thu hút đầu tư phát
triển KT-XH.
Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp chung: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống hóa,
trừu tượng hóa, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Phân tích theo mô hình
thống kê, đánh giá, so sánh và tổng hợp từ các số liệu. Đồng thời, luận văn cũng kế thừa và sử
dụng có chọn lọc những thông tin đã có trong các công trình nghiên cứu của một số nhà khoa
học, nhà quản lý.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư và thu hút đầu tư vào quốc gia,
vùng lãnh thổ.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư
trực tiếp vào địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước ở lĩnh vực thu hút đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế ở Nghệ An
và những người quan tâm đến lĩnh vực đầu tư.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư trực tiếp
Hiện nay đang tồn tại một số quan niệm khác nhau về đầu tư. Một số quan niệm tiêu
biểu:
- Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực
vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích luỹ xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác dược đưa vào tái sản xuất
xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một hoạt động nào
đó nhằm mục đích thu được một khoản lớn hơn.
- Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên…trong cùng một thời gian tương
đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội. Đặc điểm của đầu tư là thời gian
tương đối dài, những hoạt động kinh tế có thời gian dưới một năm không được gọi là đầu
tư.
- Theo luật đầu tư 2005 (có hiệu lực thi hành 01/7/2006) thì: “Đầu tư là việc nhà đầu
tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư” [29, tr.6].
Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư, bao gồm: Doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế; Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài; Hộ kinh doanh cá nhân ở trong và ngoài nước có hoạt động đầu tư [29,
tr.7].
Trong luận văn này, tác giả cho rằng: Đầu tư là quá trình bỏ vốn (tiền, nguyên
liệu, nhân lực, công nghệ, giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh…) vào các hoạt
động sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, người ta phân loại đầu tư theo các tiêu chí khác nhau.
- Theo lĩnh vực của nền kinh tế, có: Đầu tư sản xuất và đầu tư cho các hoạt động dịch
vụ.
- Theo nguồn vốn đầu tư, có: Đầu tư từ vốn NSNN, từ vốn vay hay vốn tự có của
DN, của dân cư, tín dụng…
- Căn cứ vào phạm vi biên giới quốc gia, quốc tịch và nơi đăng ký hoạt động theo
pháp luật của nhà đầu tư, hoạt động đầu tư gồm: Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư
nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành
hoạt động đầu tư.
- Căn cứ vào các phương thức đầu tư, phương thức sử dụng vốn đầu tư, hoạt động
đầu tư bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính
trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Từ việc
không trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động sử dụng vốn, nhà đầu tư không chịu trách
nhiệm về kết quả đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường được thực hiện dưới các hình thức:
Chứng khoán và viện trợ (ODA).
+ Đầu tư trực tiếp: Là phương thức sử dụng vốn đầu tư mà nhà đầu tư tham gia trực
tiếp vào quản lý hoạt động đầu tư và quá trình sản xuất kinh doanh theo 2 hình thức:
Đầu tư chuyển dịch: Người bỏ vốn mua lại cổ phần của người khác nhằm tăng tỷ
trọng vốn góp để nắm quyền chi phối quá trình quản trị kinh doanh doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển: Là hình thức đầu tư nhằm tạo dựng nên năng lực mới (về lượng
hoặc về chất, chiều rộng hay chiều sâu) cho các hoạt động sản xuất, dịch vụ nhằm đạt mục
tiêu hiệu quả. Đầu tư phát triển thường ở dưới dạng: Xây dựng mới, mở rộng quy mô hiện
đại có đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực hoạt động của nền kinh tế hoặc doanh
nghiệp, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Về thu hút đầu tư, dưới góc độ kinh tế đầu tư, lý thuyết về lực hút và lực đẩy của
luồng đầu tư cho rằng: luồng đầu tư trực tiếp được quyết định bởi các yếu tố thúc đẩy
đầu tư (push factors) từ bên ngoài và các yếu tố thu hút đầu tư từ bên trong (pool
factors). Các yếu tố từ bên ngoài gồm các yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh từ nền
kinh tế có vốn đầu tư và môi trường kinh tế toàn cầu, các yếu tố từ bên trong gồm các
yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, môi trường
đầu tư, nguồn nhân lực, hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi … của nền kinh tế tiếp
nhận đầu tư [18].
Trong luận văn chỉ tập trung phân tích các yếu tố bên trong của nền kinh tế tiếp nhận
đầu tư.
Vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ, máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh sáng chế…) được bỏ vào đầu tư nhằm đạt được
mục tiêu đã định.
Theo các cách phân loại đầu tư và theo các tiêu chí khác nhau, vốn đầu tư cũng được
phân thành nhiều loại khác nhau.
- Theo nguồn vốn có: Vốn nước ngoài và vốn trong nước.
- Theo phương thức đầu tư có: Vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp.
Khác với đầu tư gián tiếp là nguồn vốn được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính
thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị
trường tài chính, đầu tư trực tiếp có nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất
(xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất) nên
khó chuyển đổi hoặc thanh khoản. Đặc trưng nổi bật này chính là “ưu điểm” và tạo sự
“yên tâm” cho chính quyền địa phương thu hút đầu tư, tránh được sự rút vốn của nhà đầu
tư (nếu có) theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn, ảnh hưởng
tới sự phát triển ổn định của địa phương.
Luận văn này tiếp cận hoạt động đầu tư và vốn đầu tư theo cả 2 cách phân loại như
trên.
1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp đối với phát triển kinh tế
Có rất nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về vai trò của vốn đầu tư trực tiếp,
chúng tôi chỉ tập trung ở những vai trò chủ yếu sau:
a) Vốn đầu tư trực tiếp góp phần bổ sung quan trọng, giải quyết được khó khăn về
thiếu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân
Để có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, tất cả các nước đang phát triển và kém phát
triển, do tích luỹ nội bộ thấp, muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế đều cần phải có
vốn. Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư cũng không ngừng
tăng lên. Thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế cao thường gắn với tỷ trọng đầu tư lớn.
Nhờ có vốn đầu tư mà nhà nước cũng như doanh nghiệp có điều kiện đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế và đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết
các vấn đề văn hoá, xã hội.
Không chỉ đối với các nước nghèo và kém phát triển mà kể cả các nước phát triển,
vốn đầu tư là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Còn đối với các
nước chậm phát triển thì đây là nguồn lực hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Các
quốc gia này luôn rơi vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, lạc hậu về công nghệ và trình độ
quản lý. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang phát triển và kém phát triển, Paul
A.Samuelson đã ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này như là một vòng
nghèo đói, luẩn quẩn: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp; Tiết kiệm và đầu tư
thấp làm cho tỷ lệ tích luỹ vốn thấp, không đủ vốn cho đầu tư; Vốn đầu tư không đủ cho
nhu cầu sản xuất làm cho năng lực sản xuất giảm, năng suất nền kinh tế thấp, điều này dẫn
đến thu nhập bình quân thấp và lại quay trở về chu kỳ ban đầu.
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá là
tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, thu hút và huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài
nước để phát triển kinh tế, tạo ra tăng trưởng, làm cho thu nhập tăng lên.
b) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư trực tiếp được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, và thường đem lại hiệu quả kinh
tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu so sánh với các nguồn
vốn đầu tư gián tiếp hay các nguồn vốn viện trợ khác như: cổ phiếu, ODA hay NGO thì
dễ nhận thấy ưu điểm của vốn đầu tư trực tiếp. Đó là, ví dụ vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, nước chủ nhà không phải hoàn trả vốn, do vậy, các nước và vùng lãnh thổ nhận
đầu tư tránh được nợ, hạn chế được việc nhà đầu tư rút vốn ồ ạt qua cổ phiếu và không
phải chịu những ràng buộc về mặt chính trị, xã hội đối với chủ thể đầu tư. Đồng thời
vẫn tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Việc thu
hút đầu tư trực tiếp đã làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, mặt hàng mới, mở rộng thị
trường ngoài nước nhất là các sản phẩm của các ngành công nghiệp, nông lâm thủy hải
sản…từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay một địa phương
nhận đầu tư theo hướng CNH- HĐH.
c) Góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất, rút ngắn quá trình CNH
– HĐH
Khác với các hình thức đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp không chỉ đưa vốn vào địa
bàn nhận đầu tư mà cùng với vốn là kỹ thuật, công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh,
năng lực maketing…Nhà đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư và tiến hành sản xuất kinh doanh
ngoài việc sử dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, họ còn chú trọng đầu tư vào
công nghệ cao để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nhằm tăng sức
cạnh tranh trên thị trường. Điều này góp phần nâng cao năng lực sản xuất và hiện đại hoá
nền sản xuất của địa phương thu hút đầu tư.
Nếu đứng trên góc độ của một doanh nghiệp thì vốn đầu tư là điều kiện cực kỳ quan
trọng để doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn
đầu tư mà doanh nghiệp có thể nghiên cứu sản xuất ra hoặc mua được những máy móc
thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại ở trong nước và trên thế giới. Từ
đó, nâng cao hơn năng lực cạnh tranh của mình. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ có
những doanh nghiệp nào biết ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ
mới một cách phù hợp thì mới thành công trong kinh doanh, giành được thắng lợi trong
cạnh tranh.
d) Mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo công ăn việc
làm và thu nhập cho người lao động
Có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư trực tiếp; nguyên liệu, sản phẩm hay
một yếu tố nào đó trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp có thể được nhập khẩu
từ nước ngoài hay xuất bán ra nước ngoài, từ đó góp phần mở rộng quan hệ quốc tế. Có
thêm nhà đầu tư, có thêm tổ chức kinh tế hoạt động là tạo thêm việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì
đầu tư trực tiếp, (đặc biệt là FDI) cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi
có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối
với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn đến chỗ đầu
tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; Tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu với giá cao, dẫn đến chi phí sản
xuất lớn, chất lượng sản phẩm chưa cao, tính cạnh tranh thấp; Do sự chênh lệch về trình độ
quản lý và năng lực công nghệ nên các nước nhận vốn đầu tư nước ngoài có thể bị thua thiệt
trong các dự án liên doanh.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý thuận lợi hay không thuận lợi ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động
thương mại và đầu tư trực tiếp, đặc biệt là thu hút FDI. Vị trí địa lý càng thuận lợi thì mức
độ trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia và nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào càng lớn,
ngược lại sẽ gây trở ngại cho hoạt động kêu gọi, thu hút đầu tư do: tốn thời gian, tăng chi
phí vận tải, giảm hiệu quả kinh tế.
- Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên được coi là tiền đề vật chất cho sự phát
triển của đầu tư trực tiếp. Khí hậu thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi cũng như đất đai đảm
bảo cho việc xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện thu hút
đầu tư ở lĩnh vực nông nghiệp; nhiều danh lam thắng cảnh sẽ thuận lợi cho phát triển kinh
tế du lịch; mạng lưới sống ngòi với độ cao thuận lợi cho phát triển công nghiệp thủy điện;
vùng giàu về tài