Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là động
lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta xây dựng.
Từ lâu, Đảng ta luôn coi trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử thách, đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định
hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hóa đời sống
xã hội từ cơ sở.
Chính vì vậy mà ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị 30 CT/TW về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tiếp đó, ngày 15/5/1998, để cụ thể
hóa Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29 NĐ/CP về ban hành "Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã" nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển
kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực
hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Qua 3
năm triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; mặc dầu thời gian còn ngắn, song
thực tế đã cho thấy những kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn bộc
lộ những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở
nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, mệnh lệnh, tham nhũng, sách
nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi,
chưa ngăn chặn được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chậm
đi vào cuộc sống.
Do vậy báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nêu rõ: "Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức;
xây dựng luật trưng cầu ý dân" [12, 134].
Để không ngừng tăng cường hiệu quả của việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi
sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi toàn quốc hay
từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Với tầm quan trọng trên, chúng tôi chọn vấn đề: " Thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh - Những vấn đề đặt ra và giải pháp " làm
đề tài luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa học, hy vọng
có thể góp phần nhỏ bé, thiết thực vào một vấn đề hết sức bức xúc hiện nay
101 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 6510 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh - Những vấn đề đặt ra và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
Thành phố Vinh - Những vấn đề đặt ra và giải pháp
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là động
lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta xây dựng.
Từ lâu, Đảng ta luôn coi trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử thách, đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định
hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hóa đời sống
xã hội từ cơ sở.
Chính vì vậy mà ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị 30 CT/TW về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tiếp đó, ngày 15/5/1998, để cụ thể
hóa Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29 NĐ/CP về ban hành "Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã" nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển
kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực
hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Qua 3
năm triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; mặc dầu thời gian còn ngắn, song
thực tế đã cho thấy những kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn bộc
lộ những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở
nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, mệnh lệnh, tham nhũng, sách
nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi,
chưa ngăn chặn được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chậm
đi vào cuộc sống.
Do vậy báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nêu rõ: "Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức;
xây dựng luật trưng cầu ý dân" [12, 134].
Để không ngừng tăng cường hiệu quả của việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi
sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi toàn quốc hay
từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Với tầm quan trọng trên, chúng tôi chọn vấn đề: " Thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh - Những vấn đề đặt ra và giải pháp " làm
đề tài luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa học, hy vọng
có thể góp phần nhỏ bé, thiết thực vào một vấn đề hết sức bức xúc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đây là vấn đề mới được triển khai thực hiện ở nước ta, nhưng đã có một số
công trình, bài viết liên quan.
Các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở như: Lê Khả Phiếu
(1998), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết chế dân
chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 3-7. Đỗ Mười (1998), "Phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản (20), tr. 3 - 8.
Các bài viết của các tác giả phân tích, lý giải về yêu cầu, cách thức tổ chức,
con đường, biện pháp... để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, như "Thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở" của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Cộng sản, 1998, số 13, tr.
19-24; "Một số vấn đề về quy chế thực hiện dân chủ ở xã" của Vũ Anh Tuấn, Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 9, 1998, tr. 54-56; "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thiết chế
dân chủ ở nước ta" của Nguyễn Đình Tấn, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10, 1998
tr. 37-39; "Cải cách thủ tục hành chính ở cấp xã nhằm đảm bảo dân chủ ở cơ sở" của
Bùi Đức Kháng, Tạp chí Thanh tra, số 3, 1998, tr. 32-33.
Các bài viết của các tác giả nhằm sơ kết, đánh giá bước đầu như: "Thực hiện
dân chủ ở xã - Mấy vấn đề đặt ra" của Trần Quang Nhiếp Tạp chí Cộng sản, số 10,
1999, tr. 40-44; "Nhìn lại việc thực hiện thí điểm quy chế dân chủ ở cơ sở" của Đỗ
Quang Tuấn (2000), Tạp chí Dân vận, số (1+2), tr. 10-11, 13; "Một số vấn đề đặt ra
sau hai năm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở" của Nguyễn Tiến Dũng, Tạp chí
Công tác tư tưởng văn hóa, số 6, 2000, tr. 15-18; "Kết quả thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở, vấn đề đặt ra và một số giải pháp" của Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn Lan,
Thông tin Lý luận, số 9, 2000, tr. 26-30; "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn nông thôn - kết quả bước đầu và những vấn đề cần giải quyết" của Nguyễn Quốc
Phẩm, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10, 2000, tr. 32-37.
Một số bài viết góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc thực hiện và đánh giá
quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Như: "Củng cố các hình thức dân chủ vì
sự vững mạnh của Nhà nước ta" của Đào Trí úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
1, 1998, tr. 3-4; "Dân chủ- một vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta" của Đặng
Xuân Kỳ, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 7, 1998, tr. 6-9; "Cơ sở lý luận - Thực tiễn của
phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và "Mấy vấn đề xây dựng quy
chế dân chủ ở cơ sở" của Đỗ Quang Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 8, 1998, tr. 8-12;
"Những chỉ dẫn của Lênin về đấu tranh chống quan liệu và thực hành dân chủ" của
Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Thông tin Lý luận, số 4, 1999), tr. 27-30...
Các công trình đã được đăng thành sách, phân tích một cách sâu sắc, phong
phú cả nội dung lý luận và thực tiễn qua khảo sát ở các vùng, các địa phương như:
"Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" do Dương
Xuân Ngọc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; "Hệ thống chính trị cấp
cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội ở nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số
các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta" do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000; "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" do Nguyễn Văn
Sáu, Hồ Văn Thông chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001...
Liên quan đến vấn đề này còn có luận văn thạc sĩ Triết học (chuyên ngành
CNCSKH) của các tác giả Nguyễn Minh Thi (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2000), "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại các vùng nông
thôn miền núi của tỉnh Bắc Giang hiện nay", luận văn tốt nghiệp cử nhân Đại học
chính trị của tác giả Nguyễn Đăng Tiến (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2000): "Thực hiện dân chủ ở xã, phương, thị trấn nước ta hiện nay -
thực trạng và giải pháp".
Riêng ở Thành phố Vinh có các văn bản, chỉ thị của Thành ủy, ủy ban nhân
dân thành phố Vinh về triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; các báo cáo
đánh giá của Ban chỉ đạo thành ủy, của Ban chỉ đạo một số phường, xã...
Như vậy, thời gian qua đã có một số sách, báo, bài viết của các tác giả đề cập
đến vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, về việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh, cho đến nay chưa có công trình khoa
học nào đề cập tới. Những tài liệu vừa nêu trên sẽ giúp ích cho việc tham khảo, đối
chứng trong nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Từ việc đánh giá quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
Thành phố Vinh, chỉ ra những vấn đề cần giải quyết để từ đó đề ra một số giải pháp
nhằm thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới trên địa bàn đã
nêu.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích, làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là
mục tiêu, động lực của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, đẩy nhanh quá trình
xây dựng thành phố giàu, mạnh.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn thành phố Vinh.
+ Vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế quá trình thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh.
+ Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn Thành phố Vinh.
- Phạm vi nghiên cứu
Với điều kiện cho phép, đề tài chỉ nghiên cứu việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở xã, phường thuộc Thành phố Vinh trong 3 năm qua.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước có liên
quan đến đề tài, nhất là Chỉ thị 30CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định 29 của
Chính phủ. Đồng thời, người viết cũng kế thừa có chọn lọc các công trình và các bài
viết của các tác giả khác đã được công bố.
Cơ sở thực tiễn:
Người viết đã tiến hành điều tra, nghiên cứu thực tiễn một số phường, xã
thuộc Thành phố Vinh trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ 3 năm qua đối chiếu
so sánh với thực tiễn vấn đề chung trong phạm vi cả nước.
Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp lôgích và lịch sử, so sánh và tổng hợp,
đồng thời có sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để tiến hành thực hiện luận
văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Qua việc điều tra, nghiên cứu, phân tích quá trình thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh, luận văn khái quát một số kết quả bước
đầu, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phương
hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thực hiện quy chế dân chủ phù hợp với
điều kiện của địa bàn, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy
chuyên đề, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh trên địa bàn một thành phố của miền Trung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đối với quá trình đổi mới
thành phố vinh hiện nay
1.1. Những căn cứ lý luận và thực tiễn chủ yếu của việc ban hành quy
chế dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Dân chủ - một vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN
1.1.1.1. Một số quan điểm cơ bản về dân chủ
Xung quanh quan niệm về dân chủ, cho đến nay đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu, luận bàn. ở đây chúng tôi chỉ kế thừa và nêu lên một số quan điểm
có tính chất khái quát.
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có
nguồn gốc từ xã hội Hy Lạp cổ đại. ở đây, "dân chủ" là một từ ghép bao gồm hai
chữ: Dêmos, có nghĩa là người bình dân, là dân chúng (không phải là quý tộc, cũng
không phải là nô lệ), và Kratia - có nguồn gốc từ chữ Kratos - có nghĩa là quyền lực
cai trị, sức mạnh. Do vậy, từ nguyên Dêmos Kratia có nghĩa là dân chủ, quyền lực, là
sự thống trị, nền cai trị của người bình dân. Nó được biểu hiện theo nghĩa đối lập với
chế độ độc tài. Theo đó, dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là sự
cai trị của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó
quyền lực chính trị là quan trọng nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp
giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Từ khi xuất hiện cho đến nay nội dung của khái niệm dân chủ được chuyển
hóa ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. "Dân chủ" có nghĩa chung là quyền lực của
người bình dân, quyền làm chủ xã hội, và làm chủ bản thân con người, là quyền làm
chủ của nhân dân trong xã hội. Càng ngày, khái niệm dân chủ càng được mở rộng
nhiều hơn, mang nhiều nội dung mới mẻ hơn, nó được gắn với ý thức chính trị, gắn
với chính quyền của nhân dân, gắn với tiến trình lịch sử của xã hội loài người. Đồng
thời nó còn là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội
loài người. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, ở buổi bình minh của lịch sử nhân
loại, trước sức mạnh huyền bí của thiên nhiên hoang sơ, để tồn tại và phát triển, con
người buộc phải gắn bó với nhau thành cộng đồng để tạo nên sức mạnh cộng đồng.
Và con người, ngay từ buổi đầu ấy đã sử dụng sức mạnh cộng đồng để thực hiện
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nhân chủng học người Mỹ
đầu thế kỷ XIX L.Moóc gan đã nhận xét: "Toàn thể các thành viên của Thị tộc đều là
những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự do của nhau; họ đều có những quyền cá
nhân ngang nhau - Cả tù trưởng lẫn Thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi những quyền
ưu tiên nào cả, họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó với nhau bởi những quan hệ
dòng máu. Tự do, bình đẳng, bác ái tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức,
nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của Thị tộc" [28, 136].
Do kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao
động, xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu
sản xuất ra đời; cùng với nó là sự xuất hiện giai cấp và một bộ máy quyền lực đặc
biệt thuộc về một số người ra đời - đó là nhà nước.
Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước đã thừa nhận tham vọng đặc quyền đứng
trên xã hội để giải quyết những vấn đề xã hội. Giai cấp chủ nô nhân danh xã hội,
chiếm đoạt nhà nước, biến nhà nước thành công cụ thực hiện quyền lực chính trị của
mình. Nhà nước chủ nô chính là hình thức, hình thái đầu tiên của chế độ dân chủ
trong xã hội có giai cấp. Dân chủ chủ nô đã đem lại cho loài người một mô hình về
mặt tổ chức và cơ chế vận hành của một thể chế dân chủ.
Theo quy luật phát triển của xã hội loài người, chế độ dân chủ sau phải cao
hơn chế độ dân chủ trước; kiểu nhà nước sau phải tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước.
Song, trái lại, kiểu nhà nước phong kiến lại độc đoán chuyên quyền, kết hợp với thế
lực của thần quyền hà hiếp nhân dân nên nhân dân hầu như bị gạt khỏi cơ chế của
quyền lực, bị mất hết quyền lực. C.Mác đã viết: nguyên tắc duy nhất của chế độ
chuyên chế là con người bị mất hết nhân tính.
Thiết lập nền dân chủ tư sản, dưới ngọn cờ dân chủ, giai cấp tư sản đang lên
đã nhanh chóng nắm lấy để lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến và tuyên bố về các
quyền tự do, bình đẳng, bác ái, về quyền tự do cá nhân của con người, về các quyền
tự quyết của các dân tộc. Song thực tế trong xã hội tử bản, "chủ nghĩa tự do" cho toàn
xã hội đã bị thay thế bằng chủ nghĩa mất tự do cho giai cấp bị trị. Do vậy, sự tha hóa
quyền lực của nhân dân là tất yếu phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đúng như
nhận xét của C.Mác: Chế độ bầu cử tự do trong chủ nghĩa tư bản biến thành "tự do"
của nhân dân lựa chọn những người thống trị mình. Tuyệt nhiên không phải là sự lựa
chọn những người đại diện cho lợi ích của bản thân mình. Lênin trong tác phẩm "Nhà
nước và Cách mạng" đã nói: "Chế độ đại nghị Tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân
chủ (không phải cho nhân dân) với chế độ quan liêu (chống nhân dân)" [37, 135].
Như vậy, theo Lênin, hình thái chính trị của nhà nước tư sản chính là chế độ dân chủ
tư sản đầy giả dối và cạm bẫy. Dù là hình thức "thiếu thành thực" và "gian dối",
nhưng so với lịch sử nhân loại, dân chủ tư sản cũng đã đạt được bước tiến dài trên
con đường giải phóng cá nhân. Nhưng nó vẫn là nền dân chủ được xây dựng trên sự
tước đoạt dân chủ, tước đoạt quyền tự do chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp
khác, nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của giai cấp tư sản. Dân chủ tư sản vì thế, không thể
là mục đích cuối cùng mà loài người hướng tới.
Chỉ có chế độ dân chủ vô sản, chế độ dân chủ được thiết lập trên cơ sở của
chế độ kinh tế, mà ở đó các tư liệu sản xuất chủ yếu đã thuộc về toàn xã hội, lực
lượng sản xuất không hề tăng lên, sự đối kháng giai cấp đã bị thủ tiêu thì quyền làm chủ
của quần chúng nhân dân mới được thực hiện đầy đủ.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể khái quát những nét cơ bản về dân chủ
như sau:
- Dân chủ là sản phẩm của xã hội loài người, gắn với giai cấp và đấu tranh
giai cấp.
- Dân chủ là một hình thái nhà nước, mà ở đó thừa nhận quyền ngang nhau
của dân cư trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý xã hội.
- Dân chủ cũng được xem xét với tư cách là phương thức của phong trào
chính trị - xã hội của quần chúng, quyền hiện thực của nhân dân.
- Dân chủ với tư cách là hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm của công
dân được quy định bởi hiến pháp và pháp luật, là hình thức nhà nước, hình thức tổ
chức và thực hiện quyền lực xã hội.
- Dân chủ với tư cách là chế độ chính trị... Song với nghĩa chung nhất, phổ
biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, thước đo trình độ dân chủ
của một chế độ nhà nước được xác định bằng mức độ thực hiện nguyên tắc toàn
quyền thuộc về nhân dân, nhân dân tham gia quá trình quản lý nhà nước như thế nào.
Dân chủ trong xã hội có đối kháng giai cấp luôn luôn chứa đựng sự mâu
thuẫn giữa bản chất giai cấp của giai cấp thống trị với tính nhân dân. Trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, yếu tố mang tính nhân dân tăng lên so với các xã hội trước, khiến cho
mâu thuẫn giữa bản chất giai cấp của giai cấp tư sản cầm quyền với tính nhân dân
(tính vô sản) của dân chủ càng trở nên gay gắt. Đó cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn tới cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập
một chế độ dân chủ mới, dân chủ XHCN - một chế độ dân chủ khác về chất so với
chế độ dân chủ tư sản. Đó là "Chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để
chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới
chỗ hoàn toàn phá hủy chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân
chủ cho nhân dân" [37, 135].
Là một hình thức của Nhà nước đặc thù, nhà nước nửa nhà nước, chế độ dân
chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó, những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân
dân được thể chế hóa thành pháp luật, thành hệ thống chính trị (trong đó nhà nước là
trụ cột) thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị và chuẩn mực dân
chủ thâm nhập và chi phối mọi hoạt động của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội;
mọi công dân và tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức và vận dụng các giá trị
dân chủ, và biến thành những quy tắc phổ biến trong hoạt động và các quan hệ xã
hội. Dân chủ XHCN phục vụ lợi ích của người lao động và nó dựa vào chế độ sở hữu
xã hội; dân chủ XHCN phát triển ngày càng sâu sắc cùng với việc thiết lập một nền
kinh tế mới, hoàn thiện mọi mặt đời sống xã hội và cá nhân.
Chế độ dân chủ XHCN là sự thay thế lịch sử đối với chế độ dân chủ tư sản,
là nấc thang mới trên chặng đường phát triển của dân chủ. Chế độ dân chủ XHCN,
theo C.Mác "là sự tự quy định của nhân dân", chủ quyền thuộc về nhân dân. Lênin
cũng viết: "Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến
thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân... dân chủ cho
tuyệt đại đa số nhân dân" [37, 107].
Lênin cũng cho rằng, dân chủ XHCN là nền dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư
sản, là dân chủ cho nhân dân lao động; dân chủ thực sự, theo nghĩa thống nhất giữa
các quyền và nghĩa vụ công dân được ghi trong hiến pháp, pháp luật với sự thực hiện
trong thực tế. Nhà nước có trách nhiệm tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần
để công dân có thể thực hiện được dân chủ như luật định. Dân chủ XHCN là nền dân
chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Thực chất của
dân chủ XHCN là sự tham gia một cách tích cực, thực sự bình đẳng và ngày càng
rộng rãi của những người lao động vào quản lý công việc của Nhà nước và xã hội.
Là thành quả của quá trình hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân, dân
chủ XHCN với tư cách là quyền lực của nhân dân; đồng thời với tư cách là chế độ
chính trị sẽ từ