Đất đai là nguồn lực tự nhiên có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
– xã hội của mỗi một quốc gia. Từ xa xưa loài người đã biết tới nguồn lực này
để chinh phục khai thác dần dần chuyển sang quan hệ kinh tế – xã hội đó là sở
hữu và sử dụng đất đai như một tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng, là một
trong 4 yếu tố sản xuất (lao động, vốn, đất đai, công nghệ) – nguồn lực đầu vào
cơ bản cho mọi nền sản xuất xã hội. Mối quan hệ đất đai nó còn ảnh hưởng tới
lợi ích quốc gia, cộng đồng và cá nhân. Do đó, mối quan hệ đất đai được quan
tâm. ở nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì
vai trò, vị trí đất đai càng được nâng lên. Có những mối quan hệ đất đai mới nảy
sinh phức tạp. Vì vậy, cần có sự quản lý Nhà nước đối với nguồn tài nguyên này
để phát huy nguồn lực đất đai, khai thác và sử dụng có hiệu quả bảo vệ lợi ích
quốc gia, cộng đồng và cá nhân. Và một trong các công cụ để Nhà nước và các
cấp chính quyền thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai đó là công tác
hồ sơ địa chính. Thật vậy, hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, sổ sách ghi nhận
thông tin về đất đai để phục vụ công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Nhìn vào
hồ sơ địa chính ta có thể biết được mọi thông tin về đất đai. Do hồ sơ địa chính
có vai trò quan trọng như vậy nên từ xa xưa Nhà nước ta đã tiến hành công tác
lập hồ sơ địa chính bằng hình thức đi từ đo đạc thủ công đến sử dụng các
phương tiện hiện đại là máy móc để đo đạc lập bản đồ địa chính để thiết lập lên
hồ sơ địa chính. Song trong tình hình hiện nay đất đai tham gia tích cực vào hoạt
động kinh tế xã hội, thị trường bất động sản hình thành, Do đó, đất đai cũng như
các mối quan hệ đất đai có nhiều thay đổi. Vì vậy để phản ánh đúng hiện trạng
đất đai, những biến đổi đất đai cần làm tốt công tác đăng kí thống kê đất đai, đo
đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính. Việc làm tốt công tác lập và quản lý hồ sơ địa
chính cho phép Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai theo pháp luật, xác
lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước và người sử dụng đất, tạo điều
kiện cho việc sử dụng đất đai một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Do vai trò
quan trọng của công tác này do vậy những năm qua Nhà nước chú trọng vào
thực hiện công tác này, nhưng đến nay trên cả nước chưa có bộ hồ sơ địa chính
hoàn chỉnh nào đó là yêu cầu bức xúc trong việc quản lý Nhà nước về đất đai.
Vì vậy em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
hồ sơ địa chính ở nước ta”.
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu vai trò, mục đích ý nghĩa của công tác lập
và quản lý hồ sơ địa chính trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai đồng thời
tìm hiểu thực hiện công tác này từ đó tìm ra giải pháp để hoàn thiện công tác
quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và công tác hồ sơ địa chính nói riêng.
Để đáp ứng mục đích nghiên cứu trên thì đối tượng nghiên cứu: các quan
hệ đất đai, đặc điểm, nội dung hồ sơ địa chính, yếu tố ảnh hưởng đến công tác
lập và quản lý hồ sơ địa chính để biết được các đặc điểm, yếu tố này ảnh hưởng
như thế nào tới việc lập và quản lý hồ sơ địa chính đồng thời nghiên cứu quá
trình lập và quản lý hồ sơ địa chính để tìm ra biện pháp nhằm thúc đẩy nhanh
tiến trình. Thông qua nghiên cứu nhữnh thuận lợi, khó khăn trong công tác lập
và quản lý hồ sơ địa chính của thành phố Hà Nội về việc thực hiện thí điểm tại
12 phường, xã, thị trấn tại Hà Nội từ đó rút ra kinh nghiệm để triển khai công tác
này trên toàn thành phố tiếp đến thực hiện trên cả nước
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử – tức là đặt việc xây dựng hồ sơ địa chính trong mối quan hệ của đất
đai cũng như nội dung khác của quản lý Nhà nước về đất đai và các mối quan hệ
giữa các nội dung của hồ sơ địa chính. Ngoài ra sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận.
Nội dung gồm 3 phần:
+ Phần I: Cơ sở lý luận của công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính
+ Phần II : Thực trạng công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính ở nước ta
+ Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hồ sơ địa chính.
79 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3019 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Thực trạng và giải pháp nhằm
hoàn thiện công tác
hồ sơ địa chính ở nước ta
2
A. Lời nói đầu
Đất đai là nguồn lực tự nhiên có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
– xã hội của mỗi một quốc gia. Từ xa xưa loài người đã biết tới nguồn lực này
để chinh phục khai thác dần dần chuyển sang quan hệ kinh tế – xã hội đó là sở
hữu và sử dụng đất đai như một tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng, là một
trong 4 yếu tố sản xuất (lao động, vốn, đất đai, công nghệ) – nguồn lực đầu vào
cơ bản cho mọi nền sản xuất xã hội. Mối quan hệ đất đai nó còn ảnh hưởng tới
lợi ích quốc gia, cộng đồng và cá nhân. Do đó, mối quan hệ đất đai được quan
tâm. ở nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì
vai trò, vị trí đất đai càng được nâng lên. Có những mối quan hệ đất đai mới nảy
sinh phức tạp. Vì vậy, cần có sự quản lý Nhà nước đối với nguồn tài nguyên này
để phát huy nguồn lực đất đai, khai thác và sử dụng có hiệu quả bảo vệ lợi ích
quốc gia, cộng đồng và cá nhân. Và một trong các công cụ để Nhà nước và các
cấp chính quyền thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai đó là công tác
hồ sơ địa chính. Thật vậy, hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, sổ sách ghi nhận
thông tin về đất đai để phục vụ công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Nhìn vào
hồ sơ địa chính ta có thể biết được mọi thông tin về đất đai. Do hồ sơ địa chính
có vai trò quan trọng như vậy nên từ xa xưa Nhà nước ta đã tiến hành công tác
lập hồ sơ địa chính bằng hình thức đi từ đo đạc thủ công đến sử dụng các
phương tiện hiện đại là máy móc để đo đạc lập bản đồ địa chính để thiết lập lên
hồ sơ địa chính. Song trong tình hình hiện nay đất đai tham gia tích cực vào hoạt
động kinh tế xã hội, thị trường bất động sản hình thành, Do đó, đất đai cũng như
các mối quan hệ đất đai có nhiều thay đổi. Vì vậy để phản ánh đúng hiện trạng
đất đai, những biến đổi đất đai cần làm tốt công tác đăng kí thống kê đất đai, đo
đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính. Việc làm tốt công tác lập và quản lý hồ sơ địa
chính cho phép Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai theo pháp luật, xác
lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước và người sử dụng đất, tạo điều
kiện cho việc sử dụng đất đai một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Do vai trò
quan trọng của công tác này do vậy những năm qua Nhà nước chú trọng vào
thực hiện công tác này, nhưng đến nay trên cả nước chưa có bộ hồ sơ địa chính
hoàn chỉnh nào đó là yêu cầu bức xúc trong việc quản lý Nhà nước về đất đai.
Vì vậy em chọn đề tài
3
“Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
hồ sơ địa chính ở nước ta”.
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu vai trò, mục đích ý nghĩa của công tác lập
và quản lý hồ sơ địa chính trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai đồng thời
tìm hiểu thực hiện công tác này từ đó tìm ra giải pháp để hoàn thiện công tác
quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và công tác hồ sơ địa chính nói riêng.
Để đáp ứng mục đích nghiên cứu trên thì đối tượng nghiên cứu: các quan
hệ đất đai, đặc điểm, nội dung hồ sơ địa chính, yếu tố ảnh hưởng đến công tác
lập và quản lý hồ sơ địa chính để biết được các đặc điểm, yếu tố này ảnh hưởng
như thế nào tới việc lập và quản lý hồ sơ địa chính đồng thời nghiên cứu quá
trình lập và quản lý hồ sơ địa chính để tìm ra biện pháp nhằm thúc đẩy nhanh
tiến trình. Thông qua nghiên cứu nhữnh thuận lợi, khó khăn trong công tác lập
và quản lý hồ sơ địa chính của thành phố Hà Nội về việc thực hiện thí điểm tại
12 phường, xã, thị trấn tại Hà Nội từ đó rút ra kinh nghiệm để triển khai công tác
này trên toàn thành phố tiếp đến thực hiện trên cả nước
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử – tức là đặt việc xây dựng hồ sơ địa chính trong mối quan hệ của đất
đai cũng như nội dung khác của quản lý Nhà nước về đất đai và các mối quan hệ
giữa các nội dung của hồ sơ địa chính. Ngoài ra sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận.
Nội dung gồm 3 phần:
+ Phần I: Cơ sở lý luận của công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính
+ Phần II : Thực trạng công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính ở nước ta
+ Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hồ sơ địa chính.
4
B. Nội dung
Phần I: Cơ sở lí luận của công tác lập và
quản lý hồ sơ địa chính
I. Khái quát về công tác quản lý Nhà nước về đất đai
Đất đai là tặng vật của thiên nhiên cho không loài người thông qua lao
động và trí tuệ của chính bản thân mình mà con người tác động vào đất làm ra
sản phẩm nuôi sống mình.
Đất đai là tài nguyên, tài sản quý giá thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý và là một trong những điều kiện không thể thiếu được trong
tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế- xã hội. Do đó quản lý và sử dụng đất
đai một cách hợp lý, có hiệu quả đòi hỏi cần thực hiện công tác quản lý Nhà
nước về đất đai
Để thấy được rõ sự cần thiết của công tác này ta đi tìm hiểu vai trò đất đai
trong sự nghiệp phát triển đất nước.
1. Vai trò đất đai trong phát triển kinh tế – xã hội
1.1. Vai trò đất đai trong sản xuất, đời sống.
Con người sinh ra đã gắn liền với đất, tồn tại được là nhờ vào sản phẩm
từ đất và đế khi nhắm mắt xuôi tay con người lại trở về với đất. Đất gắn bó với
sự tồn tại và phát triển của con người. Không chỉ có vậy mà trên phương diện
kinh tế xã hội thì đất đai là tài nguyên, tài sản của mỗi quốc gia tạo nên của cải
vật chất cho xã hội. Thật vậy, đất đai là tặng vật của thiên nhiên cho không loài
người, không phải do con người làm ra. Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài
người, con người và đất đai ngày càng gắn bó với nhau. Con người khai thác
nguồn của cải vô tận này để tạo lên sản phẩm nuôi sống mình. Đất đai là sản
phẩm cuả tự nhiên, con người khai phá chiếm hữu nó do vậy đất đai chứa đựng
yếu tố lao động. Như vậy, đất đai từ nguồn tài nguyên trở thành tài sản của xã
hội. Không chỉ có vậy xét trong đời sống và sản xuất thì đất đai là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, là tư liệu
sản xuất đặc biệt đối với nông, lâm, ngư nghiệp.
Luật đất đai 1993 của nước CHXHCN Việt Nam có ghi: “ Đất đai là tài
nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư,
5
xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều
thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được
vốn đất đai như ngày nay!”.
1.2. Vai trò đất đai trong sự nghiệp phát triển đất nước
Trong xã hội phong kiến thì đinh (lao động) và điền (đất đai) là hai yếu tố
được nhà vua quản lý chặt chẽ bởi đó là hai yếu tố cơ bản đầu vào của nền sản
xuất xã hội. Khi chuyển sang hình thái kinh tế tư bản, thì nền sản xuất xã hội
chuyển trọng tâm từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang khu vực công nghiệp
lúc đó đòi hỏi một yếu tố đầu vào mới đó là tư bản (vốn). Và khi công nghiệp
phát triển nên trình độ cao hơn, con người đã sử dụng công nghệ thông tin vào
trong sản xuất, lúc đó công nghệ trở thành yếu tố đầu vào mới cho nên sản xuất
xã hội. Như vậy bốn yếu tố : con người, đất đai, vốn, công nghệ là bốn nguồn
lực đầu vào cơ bản cho mọi nền sản xuất xã hội, tuỳ theo trình độ lực lượng sản
xuất mà tầm quan trọng của các yếu tố này có mức độ khác nhau.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc
hậu chúng ta đang xây dựng một xã hội công nghiệp hiện đại. Đây chính là nội
dung của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Tỉ trọng kinh tế nông, lâm,
ngư nghiệp nước ta năm 1995 là chiếm 29%, hơn nữa nông dân nước ta chiếm
tới hơn 80% dân số. Vì thế nông nghiệp nước ta vẫn đóng vai trò quan trọng.
Do đó công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu. Mà ta
biết đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng đối với sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp. Nó không chỉ là tư liệu lao động mà còn là đối tượng lao động.
Thông qua phương tiện đất đai con người đã khai thác sản phẩm từ đất và còn
hơn thế nữa khi con người biết khai thác hợp lý biết bảo vệ đất sản xuất. Thực
hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp là làm sao để tăng sản xuất
nông nghiệp trong quỹ đất hạn hẹp do quá trình đô thị hoá. Muốn vậy cần phải
có chính sách đất đai hợp lý để tác động trực tiếp vào lực lượng sản xuất nông
nghiệp. Để có chính sách đất đai hợp lý cần nhanh chóng thực hiện tốt công tác
điều tra khảo sát, đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường của cả nước và khu vực thì việc bảo đảm
diện tích rừng có vai trò quan trọng đặc biệt. Do vậy bên cạnh chính sách khai
thác rừng cần thực hiện quy hoạch, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Có như vậy
6
mới phát triển bền vững được như vậy đất đai có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ môi trường.
Trong giai đoạn hiện nay đô thị hoá đang là xu thế tất yếu do đó các khu
công nghiệp tập trung được hình thành. Vấn đề đặt ra là cần quy hoạch các khu
công nghiệp ở đâu và với quy mô như thế nào cho có lợi nhất trên mặt bằng
phân tích tổng hợp kinh tế – xã hội của tỉnh, vùng, cả nước. Điều này bắt nguồn
tù việc cân đối kinh tế trong quy hoạch sử dụng đất. Để thực hiện quy hoạch sử
dụng đất cần điều tra, khảo sát đo đạc bản đồ, tìm hiểu hiện trạng sử dụng đất
như vậy cần làm tốt công tác đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính bởi nó là căn
cứ pháp lý và khoa học thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Trong mọi thời đại thì vấn đề nhà ở và đất ở luôn được quan tâm, đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay dân số tăng lên đất chặt người đông, đất ở trở thành
nhu cầu bức xúc. Nhà ở không chỉ là tài sản quan trọng đặc biệt đối với mỗi gia
đình mà còn là một trong những tiêu chuẩn làm thước đo phản ánh trình độ
phát triển kinh tế –xã hội của mỗi nước và đánh giá mức độ công bằng và trình
độ văn minh của xã hội. Do vậy cần có chính sách đất đai hợp lý cho việc xây
dựng nhà ở, nhanh chóng thực hiện công tác đăng kí đất, lập hồ sơ địa chính,
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở để bảo vệ cho
người dân.
Ơ nước ta, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì một hệ thống các
loại thị trương được hình thành và phát triển, trong đó có thị trường bất động
sản – một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạ. Thị trường tuy mới được hình thành
nhưnh đã thu hút lượng vốn không nhỏ vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
cung cấp hành hoá thiết yếu cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu kinh doanh bất
động sản của các thành phần kinh tế... Nó được coi như lĩnh vực kinh tế quan
trọng do đó cần phát triển thị trường này. Muốn vậy cần có chính sách đất đai
hợp lý, cần nhanh chóng hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính để cung cấp thông
tin xác thực về hàng hoá bất động sản để lành mạnh hoá thị trường bất động sản
và Nhà nước có thể kiểm soát được thị trường này. Việc phát triển thị trường
này góp phần hình thành đồng bộ các loại thị trường là điều kiện để thực hiện
công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Nếu xét trên bình diện kinh tế xã hội, mặt bằng tổng thể của toàn bộ nền
kinh tế, để phát triển một xã hội công nghiệp trên cơ sở một xã hội nông nghiệp
thì chúng ta phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Và
7
công cụ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đó chính là quy
hoạch sử dụng đất, các chính sách đất đai và các chính sách xã hội. Như vậy,
quản lý đất đai lúc này có thể phát huy tác dụng là động lực thúc đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Trong kinh tế, thì đất đai là nguồn vốn to lớn của đất nước. Nhà nước có
thể tạo nguồn thu đáng kể từ hoạt động kinh tế trên đất vì đó là đầu vào không
thể thiếu được của mọi hoạt động kinh tế. Nó là nguồn vốn không bao giờ cạn
mà trong quá trình khai thác sử dụng có thể làm cho giá trị tăng lên. Trong tình
thế cơ sở hạ tầng không ngừng được cải thiện và dân số tăng lên thì giá trị bằng
tiền của đất tăng lên không ngừng. Điều này minh chứng cho sự to lớn của
nguồn vốn đất đai. Như vậy, đất đai có ý nghĩa tạo nguồn thu cho ngân sách.
Để có thể tạo nguồn thu hơn nữa cần có hệ thống quản lý đất đai chặt chẽ, hồ
sơ quản lý đầy đủ và chính sách đất đai từng bước ổn định.
Tóm lại, đất đai có vai trò hết sức quan trọng trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế –xã hội của đất nước. Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản
xuất vật chất xã hội như tư liệu sản xuất đặc biệt. Thực hiện công tác quản lý
Nhà nước về đất đai sẽ cho phép ta giải quyết vấn đề: Tăng sản lượng kinh tế
nông nghiệp, đổi mới bộ mặt nông thôn,cải thiện đời sống nhân dân; đảm bảo
an toàn lương thực quốc gia; bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái; quy
hoạch hợp lý các khu công nghiệp và kiểm soát quá trình đô thị hoá; chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trên cơ sở quy hoạch đất hợp lý; xây
dựng xã hội công bằng trên cơ sở thực hiện chính sách nhà ở và đất ở; phát
triển thị trường bất động sản; tăng cường nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Do đất đai có vai trò quan trọng như trên vì thế mà công tác quản lý Nhà
nướcvề đất đai ở nước ta đã được chú ý từ lâu nhưng do điều kiện hoàn cảnh ở
mỗi thời kỳ khác nhau mà công tác quản lý Nhà nước có nhiệm vụ cụ thể khác
nhau. Vì vậy ta cần tìm hiểu quan hệ đất đai trong lịch sử Việt Nam để thấy
được công tác quản lý Nhà nước về đất đai qua các thời kỳ. Từ đó nhận thức
quan hệ đất đai trong thời đại ngày nay.
2. Quan hệ đất đai trong lịch sử Việt Nam
Bất kỳ một quốc gia nào, Nhà nước nào cũng có một quỹ đất đai nhất
định được giới hạn bởi biên giớ quốc gia mà thiên nhiên ban tặng.
8
Đất đai là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia vì vậy Nhà nước muốn tồn
tại và phát triển được thì phải quản lý chặt, nắm chắc tài nguyên đất đai. Mỗi
thời kỳ với chế độ chính trị khác nhau đều có chính sách quản lý đất đai đặc
trưng của thời kỳ đó.
2.1) Thời kỳ đầu lập nước
Trong thời kỳ này đất đai là của chung và đó chính là khởi thuỷ của ruộng
đất công.
Khi nhà nước Văn Lang ra đời thì toàn bộ ruộng đất trong đó là của
chung và cũng là của nhà vua. Sau khi đất đai bị xâm chiếm thì các vua Hùng
tổ chức chống cự dần dần hình thành khái niệm sơ khai đất đai là sở hữu của
nhà vua.
2.2) Thời kỳ phong kiến
Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, hình thức sở hữu tối cao phong kiến về
ruộng đất chi phối xã hội Việt Nam. Nhà Đường đã áp dụng nhiều chính sách
về đất đai để tạo nguồn thu cho nhà nước đô hộ.
Khi giành được độc lập tự chủ, Đinh Bộ Lĩnh làm vua xây dựng nhà nước
Đại Cồ Việt – quyền sở hữu tối cao về nhà vua được xác lập.
Dưới thời Lý – Trần, nhà vua chấp nhận ba hình thức sở hữu: sở hữu nhà
vua, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Nhưng tất cả người sử dụng đất đều phải
nộp công quỹ cho nhà vua.
Đến thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã ban hành chính sách cải cách ruộng đất
(1397) thực hiện chế độ hạn điền (mỗi người không quá 10 mẫu ruộng) để thu
hồi đất đai cho nhà nước.
Vào năm 1428 Lê Lợi lên ngôi đã phong đất cho các quần thần và thực
hiện kiểm kê đất đai để lập sổ sách (địa bạ) từ đó có chính sách phân phối lại
ruộng công bỏ hoang cho binh lính và nông dân. Trong giai đoạn này bộ luật
đầu tiên ở nước ta được ban hành gọi là Luật Hồng Đức trong đó có 60 điều nói
về đất đai. Các điều luật nói về đất đai thể hiện tính nhân đạo và triệt để để bảo
vệ đất công. Tuy nhiên, công việc đo đạc từ khi Lê Lợi lên ngôi đến hết đời hậu
Lê vẫn chưa được hoàn thành.
Sau khi Nguyễn ánh lên ngôi, từ năm 1805 đến năm 1836 suốt 31 năm
nhà Nguyễn hoàn tất bộ địa bạ của 18 nghìn xã từ Mục Quan Nam đến Múi Cà
9
Mau gồm 10044 tập. Trong địa bạ ghi rõ thửa đất của ai, sử dụng làm gì, kích
thức bao nhiêu trên cơ sở đo đạc thực địa, đo đạc cụ thể có sự nhất trí chủ sở
hữu và quan đạc điền. Trong thời kỳ này nhà Nguyễn đã ban hành bộ luật thứ
hai của nước ta mang tên Hoàng Việt Luật Lệ (gọi là Luật Gia Long). Trong bộ
luật này có 14 điều nhằm điều chỉnh quan hệ về nhà đất và thuế lúa. Tinh thần
là xác định quyền tối thượng của nhà vua đối với ruộng đất cả nước, trong đó
chia ra đất công quản và tư quản. Trên cơ sở này thuế lúa được thu rất triệt để
cho ngân khố quốc gia. Và cũng trong thời kỳ này chế độ hạn điền được thực
hiện lần thứ hai và nhà Nguyễn đã thực hiện thành công việc khai khẩn đất
hoang.
Như vậy, tuỳ theo chế độ chính trị và hoàn cảnh lịch sử ở mỗi thời kỳ mà
quan hệ đất đai có sự khác nhau và ta thấy rằng đất đai ngày càng được quan
tâm hơn, các mối quan hệ đất đai, công tác quản lý đất đai ngày một rõ ràng cụ
thể hơn, chi tiết hơn.
2.3) Chế độ thực dân phong kiến (thời Pháp thuộc 1883-1945)
Thực dân Pháp vừa bình định xong đã lo ngay đến vấn đề ruộng đất. Họ
cấp đất cho bọn tay sai và bán đất với giá rẻ mặt (10frăng/1 ha) vì thế đã tạo lên
chế độ đại địa chủ ở nước ta. Thực hiện chính sách chia để trị, Pháp chia nước
ta thành 3 kỳ, lập Sở địa chính ở các kỳ, Ty địa chính ở các tỉnh và trưởng bạ ở
các xã để phụ trách điền địa.
Pháp đã tiến hành thành lập bản đồ địa chính với tỷ lệ 1/1000-1/4000 đối
với ruộng đất và dùng tỉ lệ 1/200-1/1000 ở đô thị.
Pháp đã thực hiện chế độ cai trị về đất đai khác nhau ở mỗi kỳ.
- Nam kỳ: Thành lập Sở địa chính, tiền hành làm bao đạc và lập biểu
tính thuế. Đến năm1930 đã đo đạc xong bản đồ giải thửa. Thực hiện tu chỉnh
địa bộ thời Minh Mạng và thực hiện lưu trữ ở phong quản lý địa bộ.
- Trung kỳ: Tiến hành đo đạc giản đơn để có căn cứ tính thuế. Ngày
26/4/1930 Khâm sứ Trung kỳ ban hành Nghị định số 1385 lập sổ bảo tồn điền
trạch sau đổi thành Sở quản thủ địa chính.
- Bắc kỳ: Tiến hành lập bản đồ bao đạc và thành lập bản đồ địa chính
chính quy. Đồng thời lập lược đồ giản đơn nhanh chóng nắm bắt được diện tích
đất đai. Mở lớp đào tạo trên 6000 thư ký đạc điền đồng thời quy định chuyển
dịch ruộng đất phải nộp lệ phí theo quy định.
10
Như vậy, có thể nói dưới chế độ thực dân phong kiến, các mối quan hệ
đất đai ở nước ta được xác lập chỉ nhằm mục đích khai thác nguồn tài nguyên
này của thực dân Pháp. Việc lập bản đồ, thành lập Sở địa chính, Ty địa chính là
phục vụ cho việc thu thếu đất và nắm bắt nguồn tài nguyên này.
2.4) Chính sách đất đai ở miền Nam thời kỳ Mỹ Nguỵ (1954-1975)
Trong thời kỳ này tồn tại hai chính sách ruộng đất đó là chính sách ruộng
đất của chính quyền cách mạng và chính sách ruộng đất của Mỹ- Ngụy.
Chính sách ruộng đất của chính quyền cách mạng mà nội dung xuyên
suốt trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc là: Ruộng đất về tay người
cày song điều này chỉ thực hiện được ở vùng giải phóng.
Còn chính sách ruộng đất ruộng đất của Mỹ –Ngụy nằm trong chính sách
xâm lược vì vậy thực hiện chính sách “cải cách điền địa ” của chính quyền Ngô
Đình Diệm và luật “người cày có ruộng ”của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu
nhằm lôi kéo, giành giật nông dân. Luật người cày có ruộng bao gồm 6 chương
22 điều trong đó việc cấp “chứng khoán ” ruộng đất cho nông dân khẳng định
quyền sở hữu ruộng đất của nông dân nhưng chính quyền Thiệu lại ép nông dân
nhận “chứng khoán ”.
2.5) Quan hệ đất đai ở nước ta từ sau cách mạng tháng 8/ 1945.
Đất đai là một trong hai mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”. Vì vậy ngay sau khi
cách mạng tháng 8 thành công Nhà nước ta đã ban hành thông tư, chỉ thị nhằm
tăng cường hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Quốc hội thông qua luật cải cách
ruộng đất, ruộng đất được chia đều cho dân cày, người cày được canh tác trên
thửa đất của mình.
Trong giai đoạn từ năm 1955- 1959, cơ quan quản lý đất đai được thành
lập đó là Sở địa chính nằm trong Bộ tài chính với chức năng là quản lý ruộng
đất và thu thuế nông nghiệp .
Hiến pháp năm 1960 đã xác định quyền sở hữu toàn dân về đất đai, sở
hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Từ năm 1980- 1991: Thực hiện quyết định 201/ CP (01/17/1980); Chỉ thị
299/TTG(10/11/1980); Chỉ thị 100/CT_TW (13/