Biện chứng của quá trình phát triển các tư tưởng và học thuyết quản lý
đã chỉ ra rằng con người luôn là nguồn lực cơ bản và quyết định sự phát triển
của các tổ chức. Trong thời kỳ xã hội công nghiệp đã có một số học thuyết
quản lý tập trung vào sự phát triển các yếu tố khoa học kỹ thuật và kinh tế.
Nhưng ngay cả những học thuyết này cũng phải thừa nhận không thể đạt được
hiệu quả những tiến bộ kinh tế bền vững nếu thiếu sự đầu tư cho phát triển
các nguồn lực con người. Việc phát triển nguồn nhân lực trong tổ chức đã và
đang trở thành nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của những người làm công tác
quản lý.
Nhân lực là nguồn lực to lớn của mỗi quốc gia, là yếu tố vật chất quan
trọng và quyết định nhất của lực lượng sản xuất và do đó nó là động lực thúc
đẩy phát triển.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, dựa trên những thành tựu mới của khoa học, nhiều công
trình lý luận xuất hiện những năm gần đây đã đề cập và làm sáng tỏ những
khía cạnh sau đây: lý thuyết về sự phát triển đồng thời sác định trong cấu trúc
sự phát triển thì phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu cuối cùng, là đỉnh cao
của quá trình phát triển đang là chính sách bao trùm nhất của mỗi quốc gia,
đặc biệt là các nước đang phát triển.
Nước ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện tiềm
lực kinh tế còn nhỏ bé, tích luỹ từ nội bộ kinh tế còn thấp. Ngoài ra tiềm lực
con người, tài nguyên khoáng sản không nhiều . Do đó để tiếp cận với nền
khoa học, kỹ thuật đang tiến nhanh như vũ bão của thế giới, từng bước rút
ngắn và đuổi kịp với sự phát triển của các nước; Đảng ta đã xác định phát
triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
suốt quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, là nhân tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững. Sự khẳng định này là bài học rút ra từ lịch sử dựng
nước và giữ nước của ông cha ta. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến
thành công hay thất bại đều do chính con người quyết định.
68 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá của tỉnh Nam Định hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
Luận văn
Thực trạng và một số giải
pháp cơ bản phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp
hoá và hiện đại hoá của tỉnh
Nam Định hiện nay
- 2 -
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Biện chứng của quá trình phát triển các tư tưởng và học thuyết quản lý
đã chỉ ra rằng con người luôn là nguồn lực cơ bản và quyết định sự phát triển
của các tổ chức. Trong thời kỳ xã hội công nghiệp đã có một số học thuyết
quản lý tập trung vào sự phát triển các yếu tố khoa học kỹ thuật và kinh tế.
Nhưng ngay cả những học thuyết này cũng phải thừa nhận không thể đạt được
hiệu quả những tiến bộ kinh tế bền vững nếu thiếu sự đầu tư cho phát triển
các nguồn lực con người. Việc phát triển nguồn nhân lực trong tổ chức đã và
đang trở thành nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của những người làm công tác
quản lý.
Nhân lực là nguồn lực to lớn của mỗi quốc gia, là yếu tố vật chất quan
trọng và quyết định nhất của lực lượng sản xuất và do đó nó là động lực thúc
đẩy phát triển.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin về con người, dựa trên những thành tựu mới của khoa học, nhiều công
trình lý luận xuất hiện những năm gần đây đã đề cập và làm sáng tỏ những
khía cạnh sau đây: lý thuyết về sự phát triển đồng thời sác định trong cấu trúc
sự phát triển thì phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu cuối cùng, là đỉnh cao
của quá trình phát triển đang là chính sách bao trùm nhất của mỗi quốc gia,
đặc biệt là các nước đang phát triển.
Nước ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện tiềm
lực kinh tế còn nhỏ bé, tích luỹ từ nội bộ kinh tế còn thấp. Ngoài ra tiềm lực
con người, tài nguyên khoáng sản không nhiều…. Do đó để tiếp cận với nền
khoa học, kỹ thuật đang tiến nhanh như vũ bão của thế giới, từng bước rút
ngắn và đuổi kịp với sự phát triển của các nước; Đảng ta đã xác định phát
triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
suốt quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, là nhân tố cơ bản cho sự phát
- 3 -
triển nhanh và bền vững. Sự khẳng định này là bài học rút ra từ lịch sử dựng
nước và giữ nước của ông cha ta. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến
thành công hay thất bại đều do chính con người quyết định.
Nam Định là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ Sông Hồng có diện
tích đất tự nhiên 16.716 km2, trong đó có 105.437ha đất nông nghiệp, 72 km
bờ biển, trên 80 làng nghề truyền thống, dân số năm 2000 là 1.915.000 người.
Đất nông nghiệp bình quân đầu người 547m2, bằng 50 % bình quân chung cả
nước. Là một tỉnh đứng thứ 57 trên cả nước về diện tích nhưng đứng thứ 6 về
dân số trong 61 tỉnh, thành phố của cả nước.
Tổng số lao động của tỉnh khoảng 1003000người. Lực lượng lao động
của tỉnh Nam Định cần cù chịu khó có trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ
thuật khá.
Hệ thống các cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm xá; bến cảng
Hải Thịnh từng bước được hoàn thiện cùng với việc thành phố Nam Định vừa
được chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại hai đã góp phần thuận lợi
hơn cho việc phát triển và khai thác tiềm năng của các vùng kinh tế trong tỉnh.
Là một tỉnh có truyền thống cách mạng, số đối tượng hưởng chính sách
ưu đãi người có công khoảng 110000 người. trong đó khoảng 60000 người là
thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong những năm qua Nam Định đã có nhiều cố
gắng thực hiện tốt các chính sách của Đảng và nhà nước về công tác “đền ơn
đáp nghĩa” nên đời sống các gia đình chính sách ngày càng được nâng lên
ngang bằng với cộng đồng dân cư.
Những đặc điểm trên ảnh hưởng tới việc phát triển nguồn nhân lực để
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của tỉnh.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực từ thực tiễn
của đất nước nói chung, của tỉnh Nam Định nói riêng tôi chon đề tài : "Thực
trạng và một số giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá của tỉnh Nam Định hiện nay", rồi từ những lý
- 4 -
luận được nghiên cứu học tập tại trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội tôi
mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản để góp phần phát triển nguồn nhân
lực của tỉnh Nam Định đến năm 2005 – 2010 đáp ứng phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
II/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Trong giới hạn của chuyên đề này tôi mong muốn trình bày và làm
sáng tỏ phần nào những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực, đánh giá thực trạng
nguồn nhân lực của tỉnh Nam Định. Từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản để
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá
và hiện đại hoá của tỉnh Nam Định.
III/ Phạm vi nghiên cứu:
Phát triển nguồn nhân lực là một phạm trù kinh tế xã hội rộng lớn với
nhiều nội dung và biện pháp. Nói đến phát triển nguồn nhân lực là đồng thời
đề cập đến các yếu tố: Giáo dục - đào tạo, Sức khoẻ và dinh dưỡng, Môi
trường, việc làm, phát triển con người và giải pháp con người. Với nội dung
thực trạng và một số giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá của tỉnh Nam Định, chuyên đề này chỉ đề cập một
số vấn đề chung về nguồn nhân lực – thực trạng nguồn nhân lực hiện nay của
tỉnh Nam Định và một số giải pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn
nhân lực vận dụng những phương pháp sau:
1. Phân tích khái quát những tài liệu lý luận và thực tế có liên quan
đến đối tượng nghiên cứu.
2. Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích thống
kê
3. Phương pháp phân tích tài liệu và một số phương pháp khác.
- 5 -
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN SỐ
VÀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ
VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.
I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DÂN SỐ VÀ NGUỒN NHÂN LỰC:
1. Dân Số:
Dân số là tổng số người sống trên vùng lãnh thổ tại một thời điểm nhất
định nào đó.
a. Mức sinh:
- Là việc thực hiện khả năng sinh trong điều kiện thực tế.
- Tỷ xuất sinh thô: biểu thị số trẻ em sinh ra trong 1 năm so với 1000
dân.
- Tỷ suất sinh chung : biểu thị số trẻ em sinh ra trong một năm của
một nghìn phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ
- Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi : phản ánh mức độ sinh đẻ của từng
độ tuổi phụ nữ.
- Tổng tỷ suất sinh là số trẻ em bình quân mà một phụ nữ có thể có.
Là thước đo mức sinh không phụ thuộc vào cấu trúc tuổi.
b. Mức chết:
- Tỷ suất chết thô: là số chết trong một năm trên một 1000 dân số
trung bình năm.
2. Nguồn nhân lực :
a. Lao động :
+ Là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần để thoả mãn những nhu cầu của bản thân và xã
hội, là hoạt động gắn liền với sự hình thành phát triển loài người. Lao động có
- 6 -
năng suất, chất lượng, hiệu quả là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội. Vì
vậy lao động được coi là hoạt động chủ yếu, là quyền và nghĩa vụ cơ bản của
con người. Lao động ngày càng phát triển theo hướng cách mạng hoá và hiệp
tác hoá.
Tuỳ theo giác độ phân tích khác nhau lao động có các tiêu chí khác
nhau.
+ Theo dạng sản phẩm của lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân lao động được chia thành lao động sản xuất vật chất và lao động không
sản xuất vật chất .
+ Theo vị trí lao động trong quá trình sản xuất, lao động được chia
thành lao động trực tiếp sản xuất và lao động không trực tiếp sản xuất .
Lao động gián tiếp sản xuất là hoạt động quản lý và phục vụ quản lý để
đảm bảo quá trình sản xuất liên tục có hiệu quả.
+ Theo mức độ phức tạp của lao động, lao động chia thành lao động
phức tạp và lao động giản đơn.
+ Theo tính chất sử dụng các chức năng lao động, lao động chia thành
lao động chất xám và lao động chân tay.
+ Theo nguồn gốc năng lượng vận hành công cụ lao động. Lao động
chia thành lao động thủ công, lao động nửa cơ giới và lao động cơ giới, lao
động tự động hoá .
+ Theo tính chất của quan hệ lao động chia thành lao động tự do, lao
động bắt buộc.
b. Sức lao động :
- là khả năng về trí lực và thể lực của con người để tiến hành lao động
“khả năng lao động”.
- Khả năng về thể lực bao gồm : khả năng sinh công cơ bắp bằng khả
năng chịu đựng các yếu tố bất lợi đến sức khoẻ do tải trọng công việc cũng
- 7 -
như các yếu tố có hại của điều kiện lao động, được quyết định các yếu tố chất
bẩm sinh của cơ thể, quá trình rèn luyện và môi trường, điều kiện sống
- Khả năng về trí lực bao gồm khả năng hoạt động của trí óc, khả năng
vận dụng tri thức kỹ năng, kỹ sảo, khả năng sáng tạo, tác phong kỷ luật nghề
nghiệp… Khả năng ứng sử trong quan hệ lao động. Khả năng về trí lực được
quyết định bởi di truyền và các tố chất bẩm sinh của cơ thể, quá trình rèn
luyện, học tập, tích luỹ kinh nghiệm, điều kiện sống, môi trường tự nhiên xã
hội.
c Nguồn nhân lực:
Là toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi
học, đang làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và
những người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc hưu trước
tuổi theo quy định của bộ luật lao động ).
Nguồn nhân lực là tiềm năng của lao động trong thời kỳ xác định của
một quốc gia, suy rộng ra có thể xác định trên một địa phương, một ngành
hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ
phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội. Số lượng nguồn
nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ phát triển. Chất
lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng phát triển
thể lực, trình độ kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu nguồn
nhân lực về tuổi, giới tính, thiên hướng ngành nghề, phân bố lãnh thổ, khu
vực thành thị – nông thôn… các phương thức tác động và sự phát triển về số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực bao gồm : công tác dân số kế hoạch hoá
gia đình, công tác phân bố nguồn nhân lực theo vùng, lãnh thổ, các chương
- 8 -
trình dinh dưỡng, công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, công tác giáo
dục đào tạo và dạy nghề ……
Nguồn nhân lực gồm hai bộ phận:
- Bộ phận hoạt động
- Bộ phận chưa hoạt động
d. Lực lượng lao động : là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm
và những người không có việc nhưng có nhu cầu về việc làm.(Đồng nghĩa về
dân số hoạt động kinh tế ).
e. Lao động kỹ thuật: là lao động có trình độ kỹ năng, kỹ sảo nhất định
thông qua đào tạo hoặc tích luỹ kinh nghiệp thực tế, đảm nhận các công việc
phức tạp, đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật công nghệ, khả năng truyền
nghề, dậy nghề. Lao động kỹ thuật bao gồm những người có trình độ cao
đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật.
h. Lao động không có kỹ thuật: là lao động giản đơn không đòi hỏi phải
học nghề dưới bất kỳ hình thức nào.
i. Lao động tàn tật: là lao động của người bị khiếm khuyết trong một
hay một số chức năng tâm sinh lý của cơ thể làm suy giảm khả năng lao động
nhưng vẫn còn sức lao động và có nhu cầu làm việc.
k. Lao động nội trợ: là lao động phục vụ sinh hoạt trong gia đình như
nấu ăn, giặt giũ, trông trẻ... trong lao động nội trợ có lao động tự làm và lao
động nội trợ làm thuê.
l. Việc làm: là mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật
ngăn cấm.
m. Thất nghiệp: là tình trạng một bộ phận trong lực lượng lao động
muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm với mức tiền công không
- 9 -
thấp hơn mức lương tối thiểu hiện hành. Thất nghiệp là do cung về lao động
vượt quá hoặc không phù hợp về cơ cấu với cầu lao động.
II. VỊ TRÍ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HOÁ VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Các quan điểm lý luận về nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực.
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin :
Có nhiều nguồn lực tác động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
trong đó nguồn lực con người - nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Với tư
cách là nguồn động lực có tầm quan trọng đặc biệt, nguồn lực con người vừa
là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn
thiện ngay chính cả bản thân mình, vừa đồng thời là chủ nhân sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn tài sản vô giá ấy.
Mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà kinh tế học thuộc các trường phái khác
nhau đã mô tả phương thức vận động nền kinh tế thông qua mối quan hệ nhân
quả giữa quá trình phát triển kinh tế với các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Trong
đó các nhà kinh tế đều đánh giá cao vai trò của lao động và coi như yếu tố cơ
bản nhất của tăng trưởng, phát triển kinh tế .
Adam Smith đưa ra lý thuyết về giá trị lao động, coi lao động của con
người là yếu tố đầu vào cơ bản để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
C. Mác đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá
trị thặng dư, khi xác định sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt đối với nhà tư
bản.
C.Mác là người đầu tiên có công xây dựng nội dung khoa học của khái
niệm lực lượng sản xuất. Theo C. Mác lực lượng sản xuất và người lao động.
Đồng thời Ông dự báo cách mạng khoa học kỹ thuật cũng sẽ như là một bộ
- 10 -
phận trực tiếp của lực lượng sản xuất và nội dung đó đã được cuộc sống
khẳng định nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất được biểu hiện
như là bộ phận năng động và sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhờ có nó
mà công cụ và phương tiện sản xuất ngày càng được đổi mới, sản xuất phát
triển với năng suất và chất lượng cao. Đời sống tinh thần và bộ mặt của xã hội
có nhiều tiến bộ. C.Mác rất thích câu nói nổi tiếng của B.phranclin: “ Người
là động vật biết chế tạo công cụ lao động”. Điều đó chỉ ra rằng, con người
không phải chỉ với ý nghĩa là sản phẩm của hoàn cảnh, mà còn là chủ thể sáng
tạo ra hoàn cảnh, sáng tạo ra tất cả những gì loài người hiện có.
Lê Nin khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động” đó là những con người phát triển cao về
trí tuệ, khoẻ về thể chất, giầu về tinh thần, trong sáng về đạo đức…
b. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: Tư tưởng xuyên suốt của
Đảng trong đường mới đổi mới là: “coi con người là xuất phát điểm, là động
lực, là mục tiêu của cách mạng nước ta”.
Xuất phát từ vai trò của con người trong sản xuất, cũng như trong công
cuộc đổi mới xây dựng đất nước, trong văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khoá VII chỉ rõ “tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực văn hoá, xã hội, chăm sóc
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, với tư cách vừa là động lực vừa là
mục tiêu ”. ( Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
tháng 1 năm 1994 trang 45 - 46 ).
Một lần nữa Đảng ta lại xác định: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải đặt trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, trong đó phát triển nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực.
Chính vì vậy phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- 11 -
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước. Đây là
một nhiệm vụ vừa cơ bản vừa hết sức cấp bách đồng thời cũng là nhiệm vụ
hết sức khó khăn, phức tạp cần được tiến hành và quản lý với những cơ sở
khoa học đúng đắn.
2.Những nhân tố ảnh hưởng tới nguồn nhân lực:
Sự tăng trưởng kinh tế bền vững của 1 quốc gia được quyết định bởi số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực chứ không phải do tài nguyên, khoáng
sản nhiều hay ít. Các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, singapo là những nước
không giầu tài nguyên nhưng họ đã thành công về tăng trưởng kinh tế. Đó là
do họ biết cách đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Nhà kinh tế học người
Mỹ garry becker - người được giải Nobel về kinh tế năm 1992 đã khẳng định
: “không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân
lực”.
Những con số về số lượng nhân lực chưa nói hết được vấn đề, yếu tố
then chốt có ý nghĩa quyết định đến quá trình tạo ra của cải cho xã hội là chất
lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là kết quả của lao động
được biểu hiện bằng hiệu quả kinh tế.
Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực là:
a. Trình độ hiểu biết chuyên môn, nghiệp vụ.
Hiện nay do sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật
hiện đại và công nghệ thông tin tiên tiến, nền kinh tế thế giới đang bước sang
xu hướng thị trường hoá với những biến động phong phú đa dạng và nhanh
chóng, khoa học và thông tin là nguồn tạo ra chi thức, đồng thời cũng là
nguồn tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Một nền kinh tế thị trường như vậy ngày càng đòi hỏi người lao động
phải có kiến thức khoa học kỹ thuật và trình độ cao, biết ứng sử linh hoạt và
sáng tạo.
- 12 -
Nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải có nguồn nhân lực có đủ trình độ để thực
hiện nhiệm vụ đi tắt, đón đầu, làm chủ những ngành nghề sản xuất mũi nhọn,
công nghệ tiên tiến, khắc phục tình trạng nhiều lao động nhưng lại thiếu lao
động có trình độ hiểu biết, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ quản lý
kinh tế giỏi.
Mặt khác công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước được tiến
hành trong điều kiện hội nhập, giao lưu mở cửa, chuyển đổi từ cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường vừa phải đảm bảo phát huy
được nội lực, giữ gìn được môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và
những giá trị truyền thống cao đẹp. Kinh tế thị trường cũng đặt ra nhiều vấn
đề cần giải quyết, buộc mỗi người phải đối mặt với nhiều vấn đề của xã hội
với chính ngay sự hạn chế, yếu kém của bản thân. Chỉ có thể nắm bắt được
kinh tế thị trường, điều khiển được nó khi có đủ kiến thức và năng lực. Chỉ có
thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường khi
có đủ bản lĩnh chính trị vững vàng và đạo đức sáng tạo.
Yêu cầu cơ bản đối với nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá - hiện
đại hoá ở nước ta hiện nay là làm chủ công nghệ cao, biến công nghẹ nhập
thành của mình từ đó xây dựng năng lực sáng tạo công nghệ mới. Trong bối
cảnh hợp tác quốc tế và khu vực, nguồn nhân lực có chất lượng cao về chí tuệ
và tay nghề sẽ là ưu thế cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế.
Từ đó ta thấy trình độ hiểu biết, chuyên môn, nghiệp vụ có tác động rất
lớn đến chất lượng nguồn nhân lực.
b. Công tác giáo dục- đào tạo:
Theo số liệu thống kê hiện nay cho thấy nguồn nhân lực nước ta rất rồi
dào khoảng 37 triệu lao động xã hội nhưng đa số chưa qua đào tạo. Số lao
động có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp. Tính đến năm 1997 lao động
qua đào tạo nghề nghiệp 13,5%. Trong khi mục tiêu Nghị quyết trung ương 2
- 13 -
khoá 9 đề ra là hết năm 2005 số lao động qua đào tạo chiếm 30 - 35 %. Điều
đó rõ ràng đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn nhân lực hiện nay. Chất
lượng nguồn nhân lực được hình thành qua nhiều yếu tố tác động. Trong đó
phần lớn là thông qua con đường giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng.
Giáo dục đào tạo tác động đến nguồn nhân lực trên cả 3 phương diện.
Thứ nhất : nâng cao dân trí, bảo đảm một trình độ học vấn, mặt bằng
dân trí không ngừng tăng lên.
Thứ hai: đào tạo nguồn nhân lực tạo điều kiện để tăng năng suất lao
động.
Thứ ba : bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Vì vậy có thể nói giáo dục - đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định
chất lượng nguồn nhân lực.
Giáo dục - đào tạo và bồi dưỡng là trang bị kiến thức, truyền thụ kinh
nghiệm, hình thành kỹ năng, kỹ sảo trong lao động, hình thành nên những
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, và tâm lý, tạo nên mẫu người đặc
trưng v