Du lịch từ lâu vẫn được hiểu là nghỉ ngơi, tham quan giải trí. Nhưng trên thực tế, du
lịch có một hình ảnh năng động hơn, hình ảnh một ngành kinh doanh mới, có hiệu quả và
ngày càng phát triển trên mỗi quốc gia.
Bước sang thế kỷ 21, thế kỷ của dịch vụ, tin học và nền kinh tế tri thức, thì du lịch ngày
càng trở nên quan trọng và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Du lịch được
coi là một ngành “ công nghiệp không khói”, “ xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu vô hình” để thu
về nguồn ngoại tệ. Hoạt động du lịch đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế và
đang phát triển nhanh với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Hoà chung với sự phát triển
của du lịch thế giới. Ngành Du lịch Việt Nam cũng đã có những bước chuyển biến rõ rệt
nhờ vào chính sách “ mở cửa ” của Đảng và Nhà nước, ngành du lịch đã có sự tăng trưởng
và phát triển đáng khích lệ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Ngành du lịch Việt Nam trước những thách thức và cơ hội mới còn nhiều việc phải
làm để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trên cơ sở giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước.
Trong bối cảnh chung của du lịch cả nước, Du lịch Hải Dương cũng bắt đầu có
những bước chuyển biến nhưng vẫn chưa thực sự phát triển với tiềm năng sẵn có của mình.
Là một tỉnh nằm trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Hải Dương không có những tài nguyên, di
sản Văn hoá ở tầm quốc tế như nhiều tỉnh khác. Ngành du lịch chưa thực sự có những đóng
góp đáng klể vào thu nhập của người dân, nhưng như vậy không có nghĩa là Du lịch Hải
Dương không thể phát triển. Nằm trong tam giác phát triển c ủa phía Bắc là Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh cùng với nhiều di tích và danh thắng cũng như các công trình văn hoá còn được lưu
giữ . Hải Dương có nhiều thuận lợi để phát triển thương mại và du lịch
Với mong muốn có cái nhìn toàn diện và hiểu rõ hơn về tiềm năng du lịch của Hải
Dương, trong thời gian thực tập tại Sở Thương mại – Du lịch Hải Dương em đã chọn đề tài
“ Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát tri ển du lịch tỉnh Hải D ương ” làm
chuyên đ ề tốt nghiệp đại học của mình.
54 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 4182 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiềm năng du lịch và phương hướng, biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện
pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương
Lời mở đầu
Du lịch từ lâu vẫn được hiểu là nghỉ ngơi, tham quan giải trí. Nhưng trên thực tế, du
lịch có một hình ảnh năng động hơn, hình ảnh một ngành kinh doanh mới, có hiệu quả và
ngày càng phát triển trên mỗi quốc gia.
Bước sang thế kỷ 21, thế kỷ của dịch vụ, tin học và nền kinh tế tri thức, thì du lịch ngày
càng trở nên quan trọng và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Du lịch được
coi là một ngành “ công nghiệp không khói”, “ xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu vô hình” để thu
về nguồn ngoại tệ. Hoạt động du lịch đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế và
đang phát triển nhanh với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Hoà chung với sự phát triển
của du lịch thế giới. Ngành Du lịch Việt Nam cũng đã có những bước chuyển biến rõ rệt
nhờ vào chính sách “ mở cửa ” của Đảng và Nhà nước, ngành du lịch đã có sự tăng trưởng
và phát triển đáng khích lệ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Ngành du lịch Việt Nam trước những thách thức và cơ hội mới còn nhiều việc phải
làm để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trên cơ sở giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước.
Trong bối cảnh chung của du lịch cả nước, Du lịch Hải Dương cũng bắt đầu có
những bước chuyển biến nhưng vẫn chưa thực sự phát triển với tiềm năng sẵn có của mình.
Là một tỉnh nằm trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Hải Dương không có những tài nguyên, di
sản Văn hoá ở tầm quốc tế như nhiều tỉnh khác. Ngành du lịch chưa thực sự có những đóng
góp đáng klể vào thu nhập của người dân, nhưng như vậy không có nghĩa là Du lịch Hải
Dương không thể phát triển. Nằm trong tam giác phát triển của phía Bắc là Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh cùng với nhiều di tích và danh thắng cũng như các công trình văn hoá còn được lưu
giữ . Hải Dương có nhiều thuận lợi để phát triển thương mại và du lịch
Với mong muốn có cái nhìn toàn diện và hiểu rõ hơn về tiềm năng du lịch của Hải
Dương, trong thời gian thực tập tại Sở Thương mại – Du lịch Hải Dương em đã chọn đề tài
“ Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương ” làm
chuyên đề tốt nghiệp đại học của mình.
Kết cấu báo cáo chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm 3 chương.
Chương I: Tiềm năng du lịch. Khái niệm, nội dung và điều kiện phát triển du
lịch
Chương II: Thực trạng tiềm năng du lịch và kết quả hoạt động du lịch ở Hải
Dương trong những năm qua.
Chương III: Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp chủ yếu nhằm
phát triển du lịch Hải Dương.
chương I: tiềm năng du lịch. Khái niệm, nội dung và điều kiện phát triển du lịch:
I/ Khái niệm chung về du lịch và tiềm năng du lịch.
1. khái niệm chung về du lịch.
1.1 Khái niệm về du lịch.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở
các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên,
không chỉ ở nước ta mà cả nhiều nước trên thế giới cũng chưa thống nhất. Về khái niệm và
nội dung đó có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch.
Theo Tổ chức du lịch thế giới (WTO): "Du lịch bao gồm tất cả những hoạt động của
một cá nhân đi đến và lưu lại không quá 12 tháng với mục đích kiếm tiền thường xuyên".
Theo Michel Coltmant: " Du lịch là mối quan hệ tương tác giữa bốn nhóm nhân tố:
khách du lịch, các tổ chức cung ứng du lịch, chính quyền nơi đến du lịch, dân cư tại nơi du
lịch để thống nhất hoạt động du lịch nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người".
Tuyên bố LaHay về du lịch viết: " Du lịch là hoạt động tất yếu của con người và của
xã hội hiện đại. Bởi lẽ du lịch đã trở thành một hình thức quan trọng trong việc sử dụng thời
gian nhàn rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao lưu trong mối quan hệ giữa con
người với con người".
Qua các định nghĩa về du lịch nêu trên ta nhận thấy nổi lên một số điểm chủ yếu:
- Hoạt động du lịch của con người ở ngoài nơi làm việc thường xuyên của họ.
- Hoạt động vận chuyển hầu như trong tất cả mọi trường hợp đi du lịch đều có sự
tham gia của một phương tiện giao thông nào đó.
1.2. Khái niệm về tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích cách mạng, giá trị nhân văn,
công trình lao đông sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du
lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch tạo ra sức hấp dẫn du lịch.
Về thực tế, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên các đối tượng văn hoá, lịch sử
đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng
trực tiếp vào mục đích du lịch. Những điều kiện hiện nay luôn tồn tại và gắn liền với môi
trường xã hội đặc thù của mỗi địa phương, mỗi quốc gia nhằm tạo nên điểm đặc sắc cho
mỗi địa phương, mỗi quốc gia đó. Khi các yếu tố này được phát hiện, được khai thác và sử
dụng cho mục đích phát triển du lịch thì chúng sẽ trở thành tài nguyên du lịch. Như vậy có
thể nói rằng, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề phát triển du lịch, trên thực tế cho
thấy tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hậu quả hoạt
động du lịch càng cao bấy nhiêu.
- Mức độ khai thác của tài nguyên du lịch phụ thuộc vào:
+ Khả năng nghiên cứu phát hiện và đánh giá tiềm năng tài nguyên vốn còn tiềm ẩn.
+ Yêu cầu phát triển các sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch,
các nhu cầu của khách ngày càng lớn, đa dạng và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí.
+ Trình độ phát triển khoa học công nghệ đã tạo ra các phương tiện để khai thác tiềm
năng mọi cách để đạt hiệu quả tốt nhất, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu thoả mãn của khách du
lịch khi có nhu cầu khám phá những điều kỳ diệu của tài nguyên du lịch.
Như vậy, giống như các tài nguyên khác, tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử,
vì những thay đổi cơ cấu và nhu cầu đã lôi cuốn vào hoạt động du lịch những thành phần
mang tính chất kinh tế cũng như tính văn hoá - lịch sử. Nó là một phạm trù động, vì khái
niệm tài nguyên du lịch thay đổi tuỳ thuộc vào sự tiến bộ kỹ thuật, sự cần thiết về kinh tế,
tính hợp lý và mức độ nghiên cứu, khi đánh giá tài nguyên và xác định định hướng khai thác
chúng cần phải tính đến những thay đổi trong tương lai về nhu cầu cũng như khả năng kinh
tế - kỹ thuật khai thác các tài nguyên du lịch mới.
Bên cạnh những tài nguyên đã và đang được khai thác thì còn nhiều tài nguyên du
lịch vẫn tồn tại dưới dạng tiềm năng đó.
+ Chưa được nghiên cứu, đánh giá và điều tra đầy đủ.
+ Chưa được khai thác do " cầu" còn quá thấp.
+ Tính tài nguyên thấp, chưa đủ tiêu chuẩn cần thiết để khai thác và hình thành nên
các sản phẩm du lịch.
+ Các điều kiện để tiếp cận các phương tiện khai thác còn hạn chế, do đó còn gặp
nhiều khó khăn trong khai thác.
1.3. Khái niệm khách du lịch.
Nói đến khách du lịch, chúng ta có thể hiểu đó là những người đi từ nơi này đến nơi
khác để nghỉ ngơi, giả trí, cũng có thể hiểu đó là người đi du lịch hoặc kết hợp du lịch, trừ
trường hợp đi làm hay đi học…
Định nghĩa của nhóm tác giả trường kinh tế quốc dân có thể nói là tương đối hoàn
chỉnh." Khách du lịch là người đi đến một quốc gia khác, một vùng khác và lưu lại ở đó với
thời gian lớn hơn một ngày nhằm các mục đích khác nhưng không nhằm mục đích kiếm
tiền".
- Định nghĩa khách du lịch quốc tế.
Theo tổ chức du lịch thế giới ( WTO): " Khách du lịch quốc tế là một người lưu trú ít
nhất một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc gia khác với quốc gia thường trú với
nhiều mục địch khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.
+ Khách du lịch quốc tế chủ động: là những người ở nước ngoài vào nước đó.
+ Khách du lịch quốc tế bị động: là những người ở trong nước đi ra nước ngoài.
- Định nghĩa khách du lịch nội địa.
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO). " Khách du lịch nội địa là người đang sống
trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải là nơi cư trú
thường xuyên trong quốc gia đó, trong thời gian ít nhất là 24 giờ và không quá một năm với
các mục đích có thể là giải trí, công vụ, hội họp, thăm gia đình ngoài hoạt động làm việc để
lĩnh lương ở nơi đến.
- Theo Điều 4 Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 thì.
“ Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học,
làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập từ nơi đến ”
“ Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, là người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nướcngoài thường trú tại Việt Nam
ra nước ngoài du lịch ”
“ Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ tại Việt Nam ”
1.4. Khái niệm về thị trường du lịch
Xuất phát từ đặc điểm sản phẩm du lịch có thể thấy thị trường du lịch được coi là
một bộ phận tương đối đặc biệt của thị trường hàng hoá nói chung, bao gồm toàn bộ các
mối quan hệ và cơ chế kinh tế có liên quan đến địa điểm, thơì gian, điều kiện và phạm vi
thực hiện hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về du lịch
Nét đặc thù riêng của thị trường du lịch là ở chỗ:
+ Thị trường du lịch thực hiện dịch vụ hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hôị về
du lịch
+ Toàn bộ các mối quan hệ của các mối quan hệ toàn bộ trên thị trường kinh tế du
lịch phải gắn liền với vị trí, thời gian, điều kiện và phạm vi thực hiện của thị trường hàng
hoá
+ Thị trường du lịch là tổng hợp nhu cầu hay tập hợp nhu cầu về sản phẩm du lịch, là
nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ
+ ở góc độ một đơn vị kinh doanh có thể hiểu thị trường du lịch là một tập hợp khách
hàng hay nhóm khách hàng đang có nhu cầu, mong muốn và có khả năng thanh toán sẽ
được thoả mãn
+ Thị trường du lịch, mối quan hệ mua bán được hình thành giữa các tổ chức kinh tế
phục vụ lưu thông phân phối trong du lịch, đó chính là các đại lý du lịch
+ Người mua thông qua những đại lý du lịch này xẽ biết được những thông tin vế sản
phẩm mà mình sẽ mua và sau khi đồng ý thực hiện mua ở đây. Như vậy, sản phẩm đang bán
trực tiếp ở thị trường hàng hoá này đã chuyển sang bán ở thị trường du lịch
+ Chỉ khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu du lịch mới xuất hiện và ngày
càng cao, chính vì thế thị trưồng du lịch xuất hiện muộn hơn thị trường hàng hoá
+ Trên thị trường du lịch không có sự dịch chuyển của khối lượng hàng hoá, do tính
chất đặc biệt của sản phẩm du lịch, khách hàng chỉ có thể tiêu dùng tại nơi bán sản
phẩm,nên thị trường du lịch là dòng một chiều của khách đến với sản phẩm.
- Cầu du lịch
Cầu du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người. Nhu cầu này được
hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý ( đi lại ) và nhu cầu tâm lý ( giao
tiếp ) trong hệ thống các nhu cầu của con người, để làm cho cuộc sống thay đổi về môi
trường sống, muốn có thêm hiểu biết cũng như muốn nghỉ ngơi, giải trí thoát khỏi sự căng
thẳng và môi trường ô nhiễm.
Nhu cầu du lịch có được thực hiện hay không phụ thuộc vào khả năng thanh toán của
khách du lịch, có thời gian rỗi dành cho tiêu dùng du lịch và phải sẵn sàng mua sản phẩm
du lịch.
Khi thoả mãn 3 điều kiện này thì nhu cầu du lịch của cá nhân biểu hiện ở cấp độ ý
định. Nhu cầu du lịch ở cấp độ quyết định của tất cả cá nhân ở một không gian và thời gian
nhất định tạo ra thị trường khách du lịch hiện tại ở không gian và thời gian đó. Nếu nhu cầu
du lịch của các cá nhân chưa thoả mãn 1 trong 3 điều kiện nói trên thì tập hợp lại tạo ra thị
trường khách du lịch tiềm năng , khi mà trình độ sản xuất xã hội ngày càng phát triển, các
mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện, mức độ toàn cầu hoá càng cao thì nhu cầu về du lịch
càng lớn về số lượng, chất lượng và cơ cấu của nó.
- Cung du lịch
Cung trong du lịch là khả năng cung cấp toàn bộ hàng hoá về dịch vụ du lịch nhằm
đáp ứng nhu cầu của du khách, cung du lịch là toàn bộ hệ thống của cải và dịch vụ mà hệ
thống của cải và dịch vụ mà bộ máy du lịch đưa ra phục vụ khách bao hàm một chuỗi các
nhiệm vụ, trách nhiệm về hoạt động hợp thành các đơn vị tổ chức năng hoạt động trên thị
trường du lịch.
- Mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường du lịch.
Cung và cầu du lịch có mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau, cung tác
động lên cầu qua khối lượng và cơ cấu của nó, còn cầu ảnh hưởng đến sự phát triển của
cung qua việc tiêu thụ và sự phân hoá của cầu. Trong du lịch chỉ có dòng chuyển động một
chiều cầu đến cung. Xu hướng đặc trưng của thị trường du lịch là sự cân bằng giữa cung và
cầu. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch muốn phát triển hoạt động kinh doanh của mình
thì phải biết liên kết, tập hợp cầu, phải biết phối hợp cung - cầu để đem lại hiệu quả
kinh doanh cao ( vì cung trong du lịch là cố định, còn cầu thì phân tán, cung du lịch
mang tính bộ phận trong khi cầu di lịch mang tính tổng hợp).
1.5. Các khái niệm khác:
- Khái niệm kinh doanh lữ hành.
Kinh doanh lữ hành là việc đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các
công việc trong quá trình chuyển giao sản phẩm thực hiện giá trị sử dụng hoặc làm
gia tăng giá trị của nó để chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích lợi
nhuận.
- Khái niệm kinh doanh khách sạn.
Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch
vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ
ngơi và giải trí của họ tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi.
- Khái niệm kinh doanh vận chuyển.
Có 2 loại theo tính đặc thù, kinh doanh vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú
của khách du lịch và kinh doanh vận chuyển tại điểm du lịch.
2. Tiềm năng du lịch.
Theo nghĩa rộng, tiềm năng là tổng hợp tất cả các điều kiện bên trong và bên
ngoài có giá trị khai thác, sử dụng và phát triển.
Tiềm năng du lịch là một trong những điều kiện trực tiếp để phát triển du
lịch.
Tiềm năng du lịch bao hàm: vị trí địa lý, tài nguyờn du lịch, con người, thị
trường, các điều kiện về kinh tế - xó hội…
II/ Các đặc điểm chủ yếu để phát triển tài nguyên du lịch.
1. Đặc điểm tài nguyên du lịch.
Để có thể khai thác và sử dụng một cách tốt nhất các tài nguyên du lịch, cần phải
nghiên cứu các đặc điểm tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch có các đặc điểm sau đây.
1.1. Tài nguyên du lịch rất đa dạng và phong phú, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc
và độc đáo tạo ra sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách.
Khác với nhiều loại tài nguyên khác, tài nguyên du lịch rất phong phú càng đa dạng,
đặc điểm này tạo nên sự phong phú về sản phẩm du lịch, nếu chỉ tính toán đơn thuần từ mặt
kinh tế thì hiệu quả của tài nguyên du lịch đem lại là rất lớn có khi vượt trội hơn so với các
tài nguyên khác.
1.2. Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác.
Trong tài nguyên du lịch có tài nguyên có thể khai thác quanh năm, nhưng cũng có
tài nguyên khai thác lệ thuộc vào thời vụ. Sự lệ thuộc này chủ yếu dựa theo diễn biến của
khí hâu, như ở nước ta các tài nguyên được khai thác theo mùa rất rõ rệt: vào mùa Xuân ở
đồng bằng Bắc bộ là mùa của những lễ hội như hội Chùa Hương, hội Lim, hội Đền Hùng...,
vào mùa Hè thường diễn ra các hoạt động biển, đặc biệt là du lịch biển diễn ra quanh năm ở
các tỉnh có biển, nhất là ở miền Trung từ Đà Nẵng trở vào có thể tắm biển quanh năm (cả 4
mùa )vì ở đó rất ít bị ảnh hưởng của không khí lạnh.
1.3. Tài nguyên du lịch là tài nguyên không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có giá trị vô
hình.
Đây được xem là đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch. khác với tài nguyên
khác, tài nguyên du lịch là phương tiện vật chất tham gia vào việc hình thành nên các sản
phẩm du lịch, đó chính là giá trị hữu hình của tài nguyên du lịch. Giá trị vô hình của tài
nguyên du lịch được khách du lịch cảm nhận thông qua những cảm xúc tâm lý, làm thoả mãn
nhu cầu của khách du lịch.
1.4. Tài nguyên du lịch thường dễ khai thác.
Các tài nguyên du lịch thường được khai thác để phục vụ du lịch là các tài nguyên
vốn đã có sẵn trong tự nhiên do tạo hoá sinh ra hoặc con người tạo dựng lên và thường dễ
khai thác. Con người khó có thể tạo nên tài nguyên du lịch bởi vì nó sẽ giảm đi rất nhiều về
giá trị và sự hấp dẫn, chỉ cần đầu tư không lớn nhằm tôn tạo thêm vẻ đẹp và giá trị của tài
nguyên.
1.5. Tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ tạo ra sản phẩm du lịch.
Khách du lịch thường đến tận những nơi có sản phẩm du lịch để thưởng thức, đây là
đặc điểm rất khác nhau giữa tài nguyên du lịch và các tài nguyên khác. Khác là những tài
nguyên sau khi khai thác có thể vận chuyển đến tận nơi để chế biến thành sản phẩm rồi lại
đưa đến tận nơi tiêu thụ, chính vì khách du lịch phải đi đến tận các điểm du lịch nơi có các
tài nguyên du lịch để thưởng thức sản phẩm du lịch. Nên muốn khai thác tốt tài nguyên này
phải chuẩn bị tốt các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và vận chuyển
khách du lịch. Những điểm du lịch có vị trí thuận lợi sẽ thu hút được nhiều khách du lịch và
các hoạt động du lịch ở đó sẽ đạt hiệu qủa cao.
1.6. Tài nguyên du lịch có thể sử dụng nhiều lần.
Các tài nguyên du lịch được xếp vào loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử được
dụng lâu dài, vấn đề cơ bản là phải nắm được quy luật tự nhiên, lường trước được những thử
thách của tự nhiên, cũng như những tác động do con người tạo ra. Từ đó có định hướng lâu
dài và có biện pháp cụ thể để khai thác tài nguyên du lịch, bảo vệ và tôn tạo phát triển một
cách bền vững mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của du lịch trong tương lai.
2. Phân loại tài nguyên du lịch.
Các tài nguyên du lịch rất đa dạng và phong phú, có thể chia làm hai loại: Tài nguyên
du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Thiên nhiên là môi trường sống của con người và của mọi sinh vật trên trái đất, thiên
nhiên bao gồm các yếu tố và các thành phần tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên, các quá trình
biến đổi của chúng tạo nên các điều kiện tự nhiên thường xuyên tác động đến sự sống, hoạt
động của con người. Các thành phần tự nhiên tạo nên tài nguyên du lịch bao gồm:
- Địa hình: là các vùng núi có phong cảnh đẹp, hệ thống hang động, bãi biển, di tích
tự nhiên.
- Khí hậu: gồm tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khoẻ con người, tài nguyên khí
hậu phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng, du lịch, thể thao, giải trí...
-Thuỷ văn: gồm mặt nước và các bãi nông ven bờ, các điểm nước khoáng.
- Sinh vật: gồm các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các cơ sở hệ sinh thái
đặc thù.
2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn.
Là nhóm tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người sáng tạo ra. Đó là
toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con người sáng tạo ra,
đều được coi là những sản phẩm văn hoá. Tài nguyên du lịch nhân văn được phân chia
thành những nhóm cụ thể sau:
- Các di tích lịch sử văn hoá gồm: các di sản văn hoá thế giới, di tích lịch sử, thắng
cảnh cấp quốc gia và địa phương.
- Các lễ hội: làng nghề thủ công truyền thống gồm: nghề gốm sứ, trạm khắc đá, nghề
mộc, nghề kim hoàn...
- Các đối tương du lịch gắn với dân tộc học.
- Các đối tượng văn hoá - thể thao và hoạt động nhận thức khác.
III/ Những nội dung cơ bản về hoạt động du lịch ở Hải Dương.
1. Những tiềm năng cần được đánh thức.
Thuộc đồng bằng Bắc Bộ với địa hình bao gồm cả đồng bằng và đồi núi, cùng với
lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, Hải Dương có nhiều lợi thế để phát triển toàn diện
cả du lịch văn hoá, tín ngưỡng tâm linh và du lịch sinh thái. ở phía đông Bắc có 2 huyện
miền núi là Chí Linh và Kinh Môn, tuy không rộng lớn nhưng cảnh quan đa dạng, trong đó.
Vùng Chí Linh núi đồi trùng điệp, rừng cây xanh tốt là thiên đường của du lịch sinh thái,
xây dựng sân golf, biệt thự, hình thành cắm trại, picnic, vùng núi hồ Côn Sơn - K