Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục - đào tạo
(GD-ĐT). Cùng với khoa học và công nghệ, GD-ĐT đã được Đại hội VIII của Đảng xác
định là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Trong những
năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Nhà
nước vẫn dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Với nguồn
ngân sách đó, GD-ĐT đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Để phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách,
khắc phục những hạn chế còn tồn tại, một trong những vấn đề quan trọng cần phải làm
sáng tỏ thêm cả về lý luận lẫn thực tế đó là đổi mới quản lý ngân sách giáo dục- đào tạo.
Xuất phát từ thực tế trên đây, đề tài " Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào
tạo ở nước ta hiện nay " được lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành
quản lý kinh tế và hy vọng rằng sẽ đóng góp một phần nhỏ đáp ứng đòi hỏi thực tiễn
đang đặt ra hiện nay.
102 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - Đào tạo trong nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.
LUẬN VĂN:
Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo
dục - đào tạo ở nước ta hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục - đào tạo
(GD-ĐT). Cùng với khoa học và công nghệ, GD-ĐT đã được Đại hội VIII của Đảng xác
định là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Trong những
năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Nhà
nước vẫn dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Với nguồn
ngân sách đó, GD-ĐT đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Để phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách,
khắc phục những hạn chế còn tồn tại, một trong những vấn đề quan trọng cần phải làm
sáng tỏ thêm cả về lý luận lẫn thực tế đó là đổi mới quản lý ngân sách giáo dục- đào tạo.
Xuất phát từ thực tế trên đây, đề tài " Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào
tạo ở nước ta hiện nay " được lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành
quản lý kinh tế và hy vọng rằng sẽ đóng góp một phần nhỏ đáp ứng đòi hỏi thực tiễn
đang đặt ra hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu về đổi mới công tác lập kế hoạch và cơ chế
quản lý ngân sách giáo dục và đào tạo giai đoạn 1990 - 1995 như "Đổi mới và hoàn thiện
cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân" của TS Trần Thu Hà (năm 1993);
đề tài "Xây dựng qui trình lập kế hoạch và cơ chế điều hành ngân sách giáo dục - đào
tạo", đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính (năm 1996)... Các công trình
trên đề cập đến nhiều khía cạnh về quản lý, điều hành ngân sách giáo dục - đào tạo ở tầm
vĩ mô, nặng về tổng kết thực hiện các năm trước, chưa chú trọng nghiên cứu một cách cơ
bản, hệ thống cơ chế quản lý ngân sách GD-ĐT và ít chú trọng đến các giải pháp thực
hiện, nhất là trong giai đoạn 2000- 2010. Vì vậy, đề tài được lựa chọn nghiên cứu góp
phần bổ sung, hoàn thiện thêm những vấn đề còn bỏ ngỏ, đang cần được làm rõ.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta trong thời
gian qua, trong đó đi sâu phân tích thực trạng quản lý và công tác kế hoạch hóa ngân sách
GD-ĐT; Thực trạng công tác điều hành ngân sách GD-ĐT và việc quản lý, sử dụng các
nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước.
Trong khuôn khổ luận văn cao học và đối tượng nghiên cứu trên đây, luận văn
giới hạn trong phạm vi quản lý kế hoạch ngân sách GD-ĐT, các giải pháp chủ yếu để tiếp
tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT (không nghiên cứu kế hoạch phát triển GD-ĐT).
Các khía cạnh khác liên quan sẽ được đề cập khi cần thiết.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
+ Mục đích:
Luận văn nghiên cứu làm rõ thêm nội dung quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo;
góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT ở nước ta trong điều kiện cơ chế thị trường.
+ Nhiệm vụ của luận văn:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm về lý luận vị trí của sự nghiệp GD-ĐT; Mối quan
hệ giữa GD-ĐT với sự phát triển kinh tế xã hội và nội dung quản lý ngân sách GD-ĐT.
- Phân tích tình hình và thực trạng quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta, nhất là
những năm trong thời kỳ đổi mới gần đây.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT ở
nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận để nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm đường lối chính sách tài chính, chính sách giáo dục nước ta.
Cùng với phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu là kết hợp nghiên cứu lý thuyết với quan sát đánh giá thực tiễn,
đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, hệ thống hóa, phân tích, so sánh từ
đó đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta hiện
nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết
Chương 1
những vấn đề cơ bản về quản lý ngân sách
ngành giáo dục - đào tạo
1.1. sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước
1.1.1. Vai trò, vị trí của sự nghiệp giáo dục - đào tạo
Giáo dục bao gồm tất cả các loại hình học tập từ mầm non, giáo dục phổ thông,
bổ túc văn hóa nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động có giác
ngộ chính trị, có phẩm chất đạo đức, có sức khỏe đồng thời có trình độ văn hóa phổ
thông, làm cơ sở cho quá trình đào tạo tiếp theo. Đào tạo bao gồm các lĩnh vực từ trung
học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học và sau đại học, đây là quá trình truyền
thụ kiến thức khoa học kỹ thuật cho người học, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giáo dục và đào tạo luôn
luôn có mối liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục và nền tảng để phát triển đào tạo, đào
tạo là hoạt động tiếp tục của giáo dục, đào tạo có tác dụng thúc đẩy, định hướng và dẫn
dắt sự phát triển của giáo dục.
Giáo dục - Đào tạo là hoạt động không thể thiếu đối với sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia. Muốn có một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh
đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực phát triển cả về thể chất lẫn trí tuệ. Sản phẩm của
GD-ĐT là con người, là yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất tạo ra của cải
vật chất cho xã hội. Trình độ thành thạo, kỹ năng của con người có tác động trực tiếp đến
năng suất lao động, việc hình thành kỹ năng nhất thiết phải thông qua giáo dục và phải
được đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước về thực chất là nâng cao
năng suất lao động xã hội bằng cách thúc đẩy phát triển công nghiệp, sử dụng khoa học
công nghệ tiên tiến, đưa đất nước lên một trình độ phát triển mới. Nhân tố quyết định
thành công của CNH, HĐH tất yếu là nhân tố con người. Mệnh đề "con người đứng ở
trung tâm của sự phát triển", với ý nghĩa "con người vừa là mục đích, vừa là tác nhân
của sự phát triển" đã được UNESCO chính thức đề ra trong tài liệu "Hiểu để hành động",
xuất bản năm 1997 tại Paris. Quan điểm này ngày nay được nhiều nước thừa nhận và
phát triển hết sức phong phú cả về lý luận và thực tiễn như một qui luật phát triển của
thời đại. Các nước đang phát triển có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa trên cơ sở đầu
tư phát triển mạnh nguồn lực con người. Sự đầu tư được hiểu trên cả ba mặt: chăm sóc
sức khỏe, nâng cao mức sống và phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Trong đó đầu tư cho sự
nghiệp GD-ĐT là đầu tư có hiệu quả nhất.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta đặt ra mục tiêu là đến năm
2020 về cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc CNH, HĐH là nguồn lực con người Việt Nam được phát triển về số lượng và
chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Vì vậy, muốn đảm bảo tăng trưởng
về kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, giữ vững an ninh
chính trị trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao
động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai
đoạn mới. Để làm được điều này ngành GD-ĐT phải nhanh chóng đổi mới, phấn đấu đưa
nền giáo dục nước nhà đạt trình độ tiên tiến so với các nước trong khu vực trong vòng
một, hai thập kỷ tới.
1.1.2. Mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo với sự phát triển kinh tế - xã hội
Giáo dục - đào tạo đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, góp
phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức đúng đắn vai
trò của GD-ĐT đã làm thay đổi thái độ của nhiều quốc gia đối với vấn đề phát triển giáo
dục. Nhiều quốc gia đã nhìn thấy nguy cơ tụt hậu của quốc gia mình, có một phần nguyên
nhân từ sự yếu kém về GD-ĐT. Vì vậy, xu hướng tăng cường phát triển GD-ĐT, coi nó
như một đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã trở thành một xu hướng có tính
chất toàn cầu trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2.1. Giáo dục - đào tạo là động lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, lao động là yếu tố chủ thể
của quá trình sản xuất. trong đó tri thức, kỹ năng của người lao động là yếu tố quyết định
sự phát triển của lực lượng sản xuất, là động lực thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của
khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động [1]. C.Mác đã từng chỉ ra rằng:
lao động lành nghề là bội số của lao động giản đơn. Như vậy lao động đã qua đào tạo
trong một thời gian nhất định tạo ra nhiều giá trị hơn lao động chưa qua đào tạo. Nhưng
trong thực tế không phải mọi lao động đều có trình độ nghề nghiệp như nhau, đồng thời
do tính phong phú đa dạng của nền kinh tế - xã hội tạo nên lao động có những nghề
nghiệp khác nhau và trình độ lao động của mỗi người cũng khác nhau trên cơ sở đáp ứng
yêu cầu của từng ngành, từng đơn vị và từng vị trí lao động cụ thể. Vì vậy, GD-ĐT phải
cung cấp cho các ngành của nền kinh tế xã hội lực lượng lao động không chỉ về số lượng
mà còn đảm bảo về chất lượng, về cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ lao động. Nguồn
nhân lực với số lượng và chất lượng cao sẽ là một trong những nhân tố quan trọng nhất
quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Sự phát triển nguồn lực thông qua GD-ĐT là nền tảng của tư tưởng giáo dục là
quốc sách hàng đầu và giáo dục là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Theo chương
trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) trong sự phát triển nguồn lực có 5 nhân tố là:
Giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm, tự do chính trị và kinh
tế. Năm nguồn này liên kết và phụ thuộc nhau, nhưng giáo dục được coi là nhân tố cơ
bản, là nhân tố thiết yếu để cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng, để duy trì môi trường có chất
lượng cao, để mở rộng và cải thiện nguồn lao động. Chính vì thế mà hầu như mọi nước đều
nhấn mạnh đến chính sách giáo dục như là chính sách ưu tiên quốc gia trong khi xúc tiến
các kế hoạch cho sự phát triển [32, tr. 41].
Vai trò động lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của GD-ĐT còn được thể
hiện ở việc giáo dục nâng cao dân trí làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Dân trí
được biểu hiện ở trữ lượng và trình độ học vấn của dân tộc. Giáo dục nâng cao dân trí có
nghĩa giáo dục phải nâng cao được qui mô và chất lượng về phẩm chất đạo đức, trình độ
khoa học công nghệ, thể chất và thẩm mỹ. Trình độ dân trí được coi là sức mạnh của
công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước trước mắt và lâu dài.
Khi đánh giá mặt bằng dân trí của quốc gia người ta phải chú ý cả phương diện
định tính và định lượng của dân trí. Mặt định tính của dân trí được thể hiện ở chất lượng
học vấn mà người dân đã đạt được (học vấn đó có phù hợp với trình độ tri thức chung của
thế giới hay không). Mặt định lượng của dân trí được xác định qua các chỉ số như:
Tỷ lệ người biết chữ so với tổng số dân
Tỷ lệ thanh niên, nhi đồng dưới 23 tuổi được đi học
Bình quân số năm học trung bình của một người dân
Tỷ lệ trẻ 5 tuổi học mẫu giáo trước lúc vào tiểu học
Tỷ lệ học sinh học trong độ tuổi 6- 11
Tỷ lệ học sinh trung học các cấp, các ngành ở độ tuổi 11- 16
Tỷ lệ sinh viên đại học ở độ tuổi 17- 23...
Trong các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu về tỷ lệ người biết chữ và số năm học trung bình
của một người dân là hai chỉ tiêu quan trọng nhất để xác định mặt định lượng của dân trí
[3].
Nhìn khái quát lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trong thế kỷ
qua cũng cho thấy vị trí quan trọng hàng đầu của sự nghiệp phát triển GD-ĐT trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Ngay những năm 20 của thế kỷ XX, nhà kinh tế học giáo dục lỗi lạc người Nga -
X.G.Strumilin đã rút ra kết luận quan trọng: Đầu tư cho giáo dục để phát triển nhân lực 1
đồng sẽ đem lại khả năng sinh lời 4 đồng cho nền kinh tế. Những năm 60 của thế kỷ XX,
một nhà kinh tế học giáo dục người Mỹ cùng cộng sự của mình nghiên cứu và đi tới kết
luận: Trong hai nguồn vốn cơ bản cho phát triển, cho công nghiệp hóa thì "Vốn người"-
Human Capital giữ vai trò quyết định so với "vốn vật chất"- Material Capital.
Thế giới hiện đại ngày nay cũng cung cấp nhiều bằng chứng thuyết phục: Không
có quốc gia nào phát triển cao mà trình độ nhân lực, học vấn dân tộc thấp. Tương tự,
không có quốc gia nào có trình độ nhân lực thấp kém lại phát triển cao. Cạnh tranh quốc
tế ngày nay thực chất là cạnh tranh về khoa học - công nghệ, cạnh tranh về nguồn nhân
lực có trình độ cao, mà khoa học - công nghệ và trình độ nhân lực lại phụ thuộc vào sự
phát triển của GD-ĐT. Vì vậy, GD-ĐT là nền tảng của sự phát triển, đầu tư cho GD-ĐT
là đầu tư vào lĩnh vực phát triển bền vững và hiệu quả nhất.
1.1.2.2. Kinh tế xã hội đảm bảo điều kiện cho phát triển giáo dục - đào tạo
Bất cứ nền giáo dục nào cũng không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu điều
kiện đảm bảo về kinh tế. Nếu giáo dục được coi là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội thì kinh tế - xã hội là nền tảng đảm bảo điều kiện cho phát triển giáo dục. Điều này
thể hiện ở một số phương diện sau:
- Kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự phát triển GD-ĐT thông qua việc đầu tư.
Muốn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển GD-ĐT, nhất thiết phải
đầu tư. Nguồn đầu tư lớn nhất và có tính chất thường xuyên, ổn định là ngân sách nhà
nước. Đầu tư càng lớn thì giáo dục càng có điều kiện phát triển, tuy vậy sự đầu tư còn
phụ thuộc vào khả năng của nền kinh tế đất nước cũng như chủ trương, chính sách của
Nhà nước và sự quan tâm của xã hội đối với giáo dục. Ngược lại, nếu đầu tư ít, dẫn đến
giáo dục sẽ chậm phát triển. Giáo dục chậm phát triển thì khó đạt được các mục tiêu dân
trí, nhân lực, nhân tài, từ đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
- Kinh tế - xã hội định hướng và tạo môi trường xã hội cho sự phát triển giáo dục.
Một trong những qui luật cần lưu ý trong phát triển GD-ĐT là GD-ĐT chịu sự
chế ước của xã hội. Nội dung qui luật này thể hiện ở sự qui định của kinh tế xã hội đối
với giáo dục. Điều này có nghĩa: sự phát triển kinh tế - xã hội qui định sự phát triển giáo
dục, giáo dục mặc dù có sự vận động độc lập của một tiểu hệ thống, nhưng phải định
hướng theo sự định hướng của hệ thống lớn là kinh tế - xã hội.
Kinh tế - xã hội không chỉ định hướng, đầu tư về cơ sở vật chất và tài chính mà
còn tạo ra môi trường xã hội rộng lớn tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục. Môi
trường xã hội của giáo dục gồm: Môi trường gia đình, các cộng đồng dân cư, các tổ chức
xã hội... Môi trường xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục ở chỗ: thứ nhất, hỗ
trợ các điều kiện vật chất, tinh thần cho giáo dục; thứ hai, góp phần tác động giáo dục
đến các đối tượng giáo dục (học sinh, sinh viên...); thứ ba, sử dụng người được đào tạo.
Như vậy, để phát triển giáo dục, cần tạo ra mối quan hệ, liên hệ chặt chẽ giữa Đảng, Nhà
nước với giáo dục.
Tóm lại, giáo dục và kinh tế xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Giáo dục là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhưng muốn phát triển giáo
dục, cần phải có sự đảm bảo các điều kiện từ phía kinh tế - xã hội, một trong những
điều kiện đó là sự đầu tư của kinh tế - xã hội cho giáo dục.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo
Dân tộc ta có truyền thống văn hóa lâu đời, đó là truyền thống hiếu học, tôn sư
trọng đạo. Cổ nhân xưa vẫn thường dạy: "ấu bất học, Lão hà vi", điều này có thể nói rằng
không học hành thì chẳng thể làm được việc gì. Ngay từ sau Cách mạng tháng 8 năm
1945, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì
lợi ích trăm năm trồng người", Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm tới GD-ĐT, đã
có nhiều chủ trương, biện pháp thúc đẩy ngành GD-ĐT phát triển, góp phần vào sự
nghiệp kháng chiến và xây dựng đất nước của dân tộc ta. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước được thể chế bằng các văn bản có hiệu lực pháp lý cao như Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và đặc biệt Hiến pháp 1992 đã ghi rõ: "Giáo dục và Đào
tạo được xác định là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Đến Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) năm 1993 đã ra Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới sự
nghiệp giáo dục - đào tạo" với bốn quan điểm:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm
bảo việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước, phải coi
đầu tư cho giáo dục là hướng chính của đầu tư phát triển
- Mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp... Mở
rộng qui mô đào tạo, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, gắn học
với hành, tài với đức.
- Giáo dục - đào tạo gắn với yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế
tiến bộ của thời đại.
- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Trong báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ
rõ: "Cùng với Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng qui
mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả " [38, tr. 107]. Đại hội lần thứ VIII Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước". Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH phải "lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chọn GD-ĐT, khoa học - công nghệ (KH-CN) làm khâu đột phát trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, chính vì vậy
Đảng ta đã có riêng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về GD-ĐT và KH-CN. Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã nhất quán với tư tưởng và mục tiêu đã nêu ở Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng. Trong đó đã nêu 6
định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH, đó là:
- Mục tiêu cơ bản của GD-ĐT là nhằm xây dựng con người có lý tưởng, đạo đức
trong sáng, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực và biết
phát huy nội lực, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp và có sức khỏe để phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Muốn thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, phải thực sự coi GD-ĐT,
KH - CN là nhân tố quyết định. Tiếp tục khẳng định coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
- Phát triển GD-ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ
KH-CN và củng cố an ninh quốc phòng. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng qui mô, nâng cao
chất lượng và phát huy hiệu quả, thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nghiên cứu khoa học, lý thuyết với thực tiễn, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
- Các trường công lập phải giữ vai trò nòng cốt đi đôi với đa dạng hóa các loại
hình GD-ĐT.
- Thực hiện công bằng xã hội trong GD-ĐT
Nhận thức rõ vai trò của sự nghiệp GD-ĐT trong giai doạn hiện nay và để tăng
cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với sự nghiệp GD-ĐT, Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X (kỳ họp thứ 4) đã thông qua Luật giáo dục ngày
2/12/1998, có hiệu lực kể từ ngày 1/6/1999. Đây là văn kiện pháp lý hết sức quan trọng
liên quan tới mọi khía cạnh của lĩnh vực GD-ĐT, có tác động to lớn tới toàn xã hội, mọi
người dân Việt Nam
Quan điểm GD-ĐT là quốc sách hàng đầu đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng
định từ nhiều năm qua. Đại hội đại biểu Đảng toà