Đề tài Tín dụng ỏ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn tại huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam

Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện có 73% dân số và 56% lao động sinh sống và làm việc ở nông thôn. Do đó, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Do đó, bộ mặt nông thôn có khởi sắc, kinh tế nông nghiệp, nông thôn được đổi mới, đời sống nông dân được cải thiện, tình trạng đói nghèo được giảm dần. Tuy nhiên, mức đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn tuy có tăng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Núi Thành là một huyện nghèo của tỉnh Quảng Nam, trình độ phát triển còn thấp, trong khi tiềm năng về đất đai, rừng, biển và lao động dồi dào nhưng chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Để huy động vốn đầu tư thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung, huyện Núi Thành nói riêng, cần có sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó tín dụng ngân hàng là một nhân tố hết sức quan trọng. Vì vậy, ngân hàng mà đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phát huy vai trò, chức năng của mình nhằm thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Xuất phát từ những lý do trên mà tác giả chọn đề tài: "Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam" làm đề tài nghiên cứu.

pdf80 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng ỏ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn tại huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện có 73% dân số và 56% lao động sinh sống và làm việc ở nông thôn. Do đó, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Do đó, bộ mặt nông thôn có khởi sắc, kinh tế nông nghiệp, nông thôn được đổi mới, đời sống nông dân được cải thiện, tình trạng đói nghèo được giảm dần. Tuy nhiên, mức đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn tuy có tăng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Núi Thành là một huyện nghèo của tỉnh Quảng Nam, trình độ phát triển còn thấp, trong khi tiềm năng về đất đai, rừng, biển và lao động dồi dào nhưng chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Để huy động vốn đầu tư thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung, huyện Núi Thành nói riêng, cần có sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó tín dụng ngân hàng là một nhân tố hết sức quan trọng. Vì vậy, ngân hàng mà đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phát huy vai trò, chức năng của mình nhằm thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Xuất phát từ những lý do trên mà tác giả chọn đề tài: "Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam" làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Gần đây có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài về hoạt động tín dụng ngân hàng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như: - Hà Huy Hùng (2003), Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Nghệ An, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Hoàng Bá Đồng (2002), Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại NHNo&PTNTHà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng. - Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Mạnh Hùng (2005), Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Gia Lai, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng... Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về tín dụng của NHNo&PTNT với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hoá và phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn, từ đó đề xuất các giải pháp đổi mới hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành. Nhiệm vụ: - Phân tích làm rõ tác động của ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thực hiện huy động vốn, đặc biệt huy động từ nguồn nội lực trong dân cư để phục vụ công cuộc phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Phân tích tình hình tín dụng, thu hồi nợ vay, rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ở huyện Núi Thành trong những năm qua, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó. - Từ cơ sở phân tích trên, kiến nghị một số giải pháp nhằm đổi mới hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT ở huyện Núi Thành phục vụ việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành. Phạm vi nghiên cứu: Về tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam trong khoảng thời gian từ 2001 - 2005. 5. Phương pháp nghiên cứu ứng dụng các phương pháp cơ bản như: phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp khái quát hoá, phương pháp so sánh, thống kê... và kết hợp với việc nghiên cứu lý luận, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước, các quy định, các qui chế của ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Phân tích "Tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn" từ đó nêu những thành tựu đạt được, những bài học thành công và chỉ ra khiếm khuyết, hạn chế trong hoạt động NHNo&PTNT tại cơ sở, đặc biệt về cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị đối với ngân hàng cấp trên, chính quyền địa phương nhằm hoàn thiện về mặt lý luận chung trong tổ chức chỉ đạo và điều hành hoạt động ngân hàng No&PTNT ở huyện Núi Thành ngày càng tốt hơn. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu thành 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Mối quan hệ của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn 1.1. Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1.1.1. Khái niệm, bản chất tín dụng Tín dụng ngân hàng nói chung, tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng cũng mang tính chất chung của quan hệ tín dụng. Tín dụng ra đời cùng với sự phát triển và trao đổi hàng hoá, tín dụng xuất phát từ ngôn ngữ Latinh: Creditum là tin tưởng, tín nhiệm. Dần dần thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo tiếng Anh và tiếng Pháp tín dụng là " Credit", khái niệm của Tooke được Mác thừa nhận: Tín dụng dưới các hình thức biểu hiện đơn giản nhất của nó là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ, đã khiến cho một người này giao cho một người khác một số tư bản nào đó dưới hình thái tiền hoặc dưới hình thái hàng hóa đánh giá một số tiền nhất định nào đó, số tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời hạn nhất định. Khi nào tư bản được cho vay... thì người ta tăng số tiền phải hoàn trả lại lên, thêm một tỉ lệ phần trăm nhất định, coi là tiền để trả về quyền sử dụng tư bản [15, tr.613]. Xét trong quan hệ tài chính nhất định, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng cũng hàm chứa và phản ánh những nội dung khác nhau: - Xét trên góc độ chuyển dịch số tiền cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. - Trong mối quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Chẳng hạn, một công ty thương nghiệp bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn là hình thức Ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định, người đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi cho Ngân hàng. - Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Trong một ngữ cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Ví dụ: Tín dụng ngắn hạn (Short - term credit) đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn (Short - term loans); tín dụng dài hạn (long - term credit) đồng nghĩa với cho vay dài hạn (Long - term loans). Tín dụng xét theo nội dung hoạt động của các tổ chức tín dụng có nghĩa khá rộng. Đó là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong đó, cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả (gồm cả gốc và lãi) bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Quá trình phát triển tín dụng thương nghiệp đã mở rộng và ăn sâu sang lĩnh vực sản xuất làm xuất hiện hình thức tín dụng ngân hàng, nhờ sự phát triển của hệ thống ngân hàng tín dụng được đẩy nhanh hơn bao giờ hết. Tín dụng được xem là một trong những chức năng hoạt động cơ bản của ngân hàng. Với cách tiếp cận này, tín dụng ngân hàng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận. Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn và lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán. Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có đặc trưng sau: - Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng Ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (động sản và bất động sản). Trước những năm 1960, hoạt động tín dụng của Ngân hàng hầu như chỉ cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi như đồng nghĩa với nhau. Ngày nay, dịch vụ Ngân hàng phát triển, việc cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được ngân hàng và các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng, đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (cho thuê văn phòng làm việc, phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị.v.v.) - Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nên khi người cho vay chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng, họ phải có cơ sở để tin rằng người đi vay trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính quan niệm này đã ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng. - Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn. - Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cung cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khuế ước v..v thực chất là lệnh phiếu (Promissory note), trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.1.2. Chức năng của tín dụng Trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng thực hiện hai chức năng cơ bản sau: Thứ nhất, tín dụng có chức năng tập trung và phân phối lại tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả. Đây là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. ở đây, sự có mặt của tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua chức năng này, tín dụng tham gia trực tiếp vào việc điều tiết các nguồn vốn tạm thời thừa đến nơi thiếu. Nói cách khác, ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, còn ở khâu phân phối, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, các cá nhân và cho cả ngân sách. Thứ hai, kiểm soát các hoạt động kinh tế. Chức năng này được phát huy tác dụng phụ thuộc vào sự phát triển của chức năng nói trên. Cụ thể là, thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế về các mặt như: khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ. Từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng. Ngoài ra, trong hoạt động cho vay của ngân hàng, để góp phần đảm bảo an toàn vốn, đảm bảo cho khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả, ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra hoạt động kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là kiểm tra tình hình tài chính, qua đó sẽ phát hiện kịp thời những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của khách hàng hoặc những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của nhà nước để cảnh báo, nghiêm cấm hoặc có biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cho vay có hoàn trả, tín dụng ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không. Như vậy, với chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế, tín dụng sẽ góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế với những giải pháp khắc phục kịp thời, từ đó phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là tín dụng cần phải được vận dụng như một đòn bẩy kích thích phát triển kinh tế. 1.1.3. Các hình thức của tín dụng Tín dụng biểu hiện dưới các hình thức như: cho vay, chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, nó thể hiện quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cấp tín dụng đối với các đối tượng trên. - Hình thức cho vay: Cho vay tiền là một hình thức tín dụng, trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị tại khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay, lãi vay tỉ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Cho vay dựa trên các nguyên tắc sau: + Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi. + Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích + Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo Căn cứ vào thời hạn thì có 3 loại cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. + Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như: bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp, hộ sản xuất... + Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến dưới 60 tháng, loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới thiết bị, mở rộng và xây dựng các công trình có thời hạn thu hồi vốn nhanh. + Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, được sử dụng để cấp vốn cho vay xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, thời hạn thu hồi vốn dài. - Hình thức chiết khấu chứng từ có giá: Chiết khấu chứng từ có giá là một loại hình tín dụng ngắn hạn của NHTM. Trong nghiệp vụ này ngân hàng sẽ đứng ra trả tiền trước cho các hối phiếu hoặc chứng từ có giá khác chưa đến hạn thanh toán theo yêu cầu của người thụ hưởng (người sở hữu chứng từ) bằng cách khấu trừ ngay một số tiền nhất định gọi là tiền chiết khấu, tính theo giá trị chứng từ, thời hạn chiết khấu, lãi suất và các tỉ lệ chiết khấu khác, số còn lại thanh toán cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng muốn nhận được số tiền này thì bắt buộc phải làm thủ tục chuyển nhượng quyền hưởng lợi cho ngân hàng chiết khấu đối với các chứng từ xin chiết khấu. Hình thức chiết khấu chứng từ sẽ giúp cho người sở hữu chứng từ có tiền để đáp ứng các nhu cầu thanh toán, nhất là khôi phục năng lực thanh toán, duy trì được mối quan hệ tài chính, nhờ đó mà họ tiến hành sản xuất kinh doanh bình thường. Với nghiệp vụ chiết khấu qua NHTM làm cho các chứng từ có giá chưa đến hạn thanh toán có thể lưu thông từ tay người này sang tay người khác, biến các công cụ này từ chỗ các giấy nợ thương mại trở thành các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán. Đối với các NHTM: Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng có đảm bảo bằng các tài sản có tính thanh khoản cao, vì vậy vừa tạo ra tài sản có sinh lời cho ngân hàng, vừa tạo ra một lực lượng dự trữ để sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu thanh toán. Khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm bảo vì vậy các ngân hàng thường có xu hướng mở rộng nghiệp vụ chiết khấu. - Hình thức cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu tài sản thuê. Bên đi thuê được sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Các nguyên tắc cho thuê tài chính: + Tài sản cho thuê thuộc sở hữu hợp pháp của công ty cho thuê tài chính, bên thuê chỉ có quyền sử dụng. + Bên thuê phải quản lý tài sản thuê và sử dụng đúng mục đích xin thuê và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng tài sản thuê. + Bên thuê phải thanh toán tiền thuê cả gốc và phí đầy đủ, đúng hạn. + Tiền mua tài sản thuê được bên cho thuê chuyển trả trực tiếp cho bên cung cấp tài sản. Cho thuê tài chính có các hình thức sau: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên, cho thuê có sự tham gia của ba bên, cho thuê hợp tác, bán và tái thuê, cho thuê giáp lưng, cho thuê trả góp. - Hình thức bảo lãnh ngân hàng: Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên được bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên nhận bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bảo lãnh ngân hàng thông qua cam kết bù đắp, đền bù những thiệt hại về phương diện tài chính cho người thụ hưởng, bảo lãnh khi có thiệt hại xảy ra qua đó ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phát sinh trong các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập tương đối so với các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại, tài chính... Ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện cam kết bảo lãnh theo đúng trách nhiệm của mình đã ghi trong thư bảo lãnh, không kể người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng vì lý do gì. Bảo lãnh ngân hàng có các loại hình sau đây: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng. 1.1.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn Tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp là đáp ứng các nhu cầu về nguyên, nhiên vật liệu, chi phí sản xuất cho mùa vụ, trang bị máy móc, nông cụ, cải tiến sản xuất... cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Đó là các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nông dân và các doanh nghiệp sản xuất ngành nông nghiệp nhằm chi phí về nguyên, nhiên liệu, giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu, phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, chi phí ngày công lao động v.v.. Tín dụng vào nông nghiệp, nông thôn còn bao gồm các khoản vay trung, dài hạn để cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn nuôi, trồng cây ăn trái lâu năm, cây công nghiệp dài ngày, xây dựng kho tàng, cơ sở chế biến, các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ, mua sắm máy móc, thiết bị... phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy tín dụng giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: - Tín dụng góp phần hình thành thị trường tiền tệ ở nông thôn và giữ vai trò trung gian thu hút vốn, tài trợ vốn cho sản xuất nông nghiệp
Tài liệu liên quan