Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và nhất là
chúng ta đang đẩy mạnh quá trình CNH và HĐH đất nước ,vấn đề huy động vốn đang trở nên
vấp bách ,cần thiết hơn bấ cứ lúc nào .Để giải quyết vấn đề vốn và phát huy hơn nữa hiệu quả
của việc sử dụng vốn thì điều kiện khách quan là phải nhanh chóng hoàn thiện và đi vào hoạt
động có hiệu quả thị trường chứng khoán mặc dù việc điều hành và hoạt động nó vẫn còn là
mới mẻ đối với chúng ta.
Hoạt động của thi trường chứng khoán ở nước ta hiện nay nhìn chung vẫn còn đang ở
trong tình trạng kém sôi động,hoạt động chưa có hiệu quả ,chủ yếu
chỉ diễn ra ở 2 trung tâm lớn là Hà Nội và TP.HCM . Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt
Nam cũng đã xuất hiện những tín hiệu khả quan chứng tỏ sự đúng đắn trong việc định hướng
của UBCKNN. Phản ánh phần nào tình hình này chính là nội dung của bài viết "Tình hình
hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua."
31 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tình hình hoạt động của thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian qua
Lời mở đầu
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và nhất là
chúng ta đang đẩy mạnh quá trình CNH và HĐH đất nước ,vấn đề huy động vốn đang trở nên
vấp bách ,cần thiết hơn bấ cứ lúc nào .Để giải quyết vấn đề vốn và phát huy hơn nữa hiệu quả
của việc sử dụng vốn thì điều kiện khách quan là phải nhanh chóng hoàn thiện và đi vào hoạt
động có hiệu quả thị trường chứng khoán mặc dù việc điều hành và hoạt động nó vẫn còn là
mới mẻ đối với chúng ta.
Hoạt động của thi trường chứng khoán ở nước ta hiện nay nhìn chung vẫn còn đang ở
trong tình trạng kém sôi động,hoạt động chưa có hiệu quả ,chủ yếu
chỉ diễn ra ở 2 trung tâm lớn là Hà Nội và TP.HCM . Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt
Nam cũng đã xuất hiện những tín hiệu khả quan chứng tỏ sự đúng đắn trong việc định hướng
của UBCKNN. Phản ánh phần nào tình hình này chính là nội dung của bài viết "Tình hình
hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua."
CHƯƠNG I : Giới thiệu chung về thị trường chứng khoán
I/ Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán :
1/ Khái niệm về thị trường chứng khoán
- Stock market là những từ ngữ dùng để chỉ các giao dịch mua bán chứng khoán có tổ
chức thông qua các thị trường nhiều loại khác nhau và thông qua thị trường ngoài danh mục.
Các chứng khoán trong thị trường này gồm chứng khoán thường , chứng khoán ưu đãi , các
loại trái phiếu, trái phiếu khả hoán, các đặc quyền , chứng chỉ đặc quyền mua chứng khoán .
-Stock Exchange để chỉ một nơi cụ thể tụ hợp , có tổ chức ở đây các loại chứng khoán và
công cụ tương đương với chứng khoán thường, các loại trái phiếu được các hội viên của một
thị trường quan hệ giao dịch mua bán . Đây là một địa điểm cụ thể nơi các brocker và các
dealer gặp nhau để thực thi lệnh mua bán do tổ chức hoặc cá nhân giao cho để mua bán
chứng khoán .
-Hay có thể định nghĩa thị trường chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ nơi hoặc cơ
chế giao dịch mua bán chứng khoán .
Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán mà thị trường chứng khoán có
thể được chia làm hai cấp:
+Thị trường sơ cấp: còn gọi là thị trường phát hành , dùng để chỉ hoạt động phát hành
chứng khoán ra thị trường của các doanh nghiệp và công ty cổ phần hay của nhà nước .
Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đợn vị phát hành. Vai trò của thị trường sơ cấp là
tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Việcphát
hành chứng khoán ra thị trường có thể được công khai bán qua sở giao dịch chứng khoán
hoặc cũng có thể được bán riêng. Thông thường việc phát hành chứng khoán được thực hiện
qua các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thưng mại, công ty chứng khoán hoặc
công ty tài chính.
+ Thị trường thứ cấp: còn gọi là thị trường lưu hành, là thị trường thay đổi quyền sở hữu
chứng khoán cho những cổ phiếu hoặc trái phiếu đã phát hành và đang lưu thông trên thị
trường. Mặc dù việc giao dịch chứng khoán trên thị trường này rất sôi động và phong phú có
thể có một khối lượng vốn khổng lồ hàng ngày được mua bán trên thị trường này, nhưng việc
mua bán trên thi trường này hoàn toàn không làm tăng nguồn vốn cho chủ thể phát hành ra nó
. Tuy nhiên việc mua đi bán lại có cổ phiếu trên thị trường hình thành giá thị trường của cổ
phiếu sẽ là một yếu tố quan trọng khi đánh giá doanh nghiệp và nó cũng là cơ sở để hình
thành nên giá cổ phiếu bán ra thị trường sơ cấp ở lần phát hành sau.
- Căn cứ vào việc tổ chức các hoạt động giao dịch tập trung tại một địa điểm nhất định hay
không có địa điểm tập trung nhất định người ta chia thị trường chứng khoán ra làm hai loại ;
+Thị trường chứng khoán tập trung: thị trường này tổ chức trên một địa điểm nhất định gọi
là sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). Như vậy SGDCK là địa điểm hoạt động chính thức
của thị trường chứng khoán có tổ chức. Đây là nơi gặp của các nhà môi giới chứng khoán để
thương lượng đánh giá và mua bán chứng khoán. Đồng thời nó cũng là cơ quan phục vụ cho
mọi hoạt động liên quan đến chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán giúp cho việc mua bán
chứng khoán được thuận tiện dễ dàng hợp pháp, giúp cho quá trình giao lưu vốn được hài hoà
và phát triển. SGDCK không tham gia vào việc mua bán chứng khoán không can thiệp vào
quá trình hình thành giá cả chứng khoán cũng không ấn định giá cả chứng khoán. SGDCK
chỉ có nhiệm vụ tổ chức đấu giá chứng khoán theo đúng nguyên tắc cạnh tranh và quan hệ
cung cầu của thị trường. SGDCK cũng không kiểm soát việc mua bán chứng khoán mà chỉ
đóng vai trò là quan toà xử lý các vi phạm lừa đảo trong mua bán chứng khoán . Đồng thời
SGDCK luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Chính điều này đã thu
hút các nhà đầu tư đến với thị trường chứng khoán. Để hoàn thành mục tiêu này thị trường
chứng khoán chỉ cho phép những chứng khoán có phẩm chất cao được mua bán qua
SGDCK. Đó là chứng khoán của những công ty hội đủ những tiêu chuẩn do SGDCK đề ra
hay còn gọi là tiêu chuẩn niêm yết. Vai trò của các SGDCK quyết định đến sự thành công
hay thất bại của thị trường chứng khoán quốc gia. Nếu được tổ chức tốt sẽ thúc đẩy việc thu
hút và tập trung được các nguồn vốn lớn phục vụ cho việc đầu tư sản xuất. Vì những lý do
trên sự xuất hiện sự tồn tại và phát triển của SGDCK là một điều tất yêú khách quan của nền
kinh tế thị trường.
+ Thị trường chứng khoán không tập trung thị trường OTC: còn gọi là thị trường chứng
khoán phi chính thức thị trường này thực hiện giao dịch những chứng khoán không được
phép mua bán qua SGDCK. Hiện nay thị trường này phát triển không kém gì thị trường chính
thức đồng thời nó còn mua bán cả những chứng khoán đã được niêm yết. (OTC - over the
counter market ) tuy thị trường này có phí giao dịch thấp hơn so với phí của SGDCK nhưng
dù sao khi mua chứng khoán qua SGDCK các nhà đầu tư cũng cảm thấy an tâm hơn.
2) Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán:
Hoạt động của thị trường chứng khoán của một quốc gia thường lôi cuốn tất cả hoặc
hầu hết các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư tham gia. Đặc biệt là sự tham gia đông
đảo của các tổ chức tài chính như ngân hàng đầu tư , ngân hàng thương mại ,công ty tài chính
, công ty chứng khoán , công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư . . .
2.1 Công ty chứng khoán.
a) Tiêu chuẩn để công ty chứng khoán được là thành viên của SGDC.Thành viên của
SGDCK là các công ty chứng khoán hoạt động tại sàn giao dịch. Mỗi nước có thể có hàng
trăm thậm chí hàng nghìn công ty chứng khoán nhưng không phải công ty nào cũng được là
thành viên của SGDCK. Ví dụ nước Nhật có 240 công ty chứng khoán nhưng chỉ có 124
công ty được là thành viên của SGDCK. Thông thường có những công ty là thành viên của sở
giao dịch chứng khoán phải hội đủ những điều kiện như :
- Có giấy phép hoạt động của cơ quan nhà nước cấp.
- Có số vốn tối thiểu theo quy định.
- Tập hợp được các chuyên gia chứng khoán đã qua đào tạo được cấp giấy chứng nhận và
có đạo đức. (Brockers, dealers).
b) Chức năng của công ty chứng khoán trên SGDCK.
- Giao dịch chứng khoán trên thị trường : Một công ty được nhà nước cấp giấy phép hợp lệ
sẽ được quyền thực hiện toàn bộ nghiệp vụ giao dịch chứng khoán từ khâu tiếp nhận đơn đặt
hàng cho đến khâu tham gia mua bán chứng khoán công khai trên thị trường. Tuỳ theo quy
mô hoạt động mà công ty chứng khoán có thể được phép thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ
giao dịch sau đây:
+ Môi giới trung gian mua bán chứng khoán theo lệnh đặt hàng của thân chủ để hưởng hoa
hồng.
+ Nghiệp vụ buôn bán chứng khoán : công ty chứng khoán sẽ sử dụng vốn tự có để mua bán
chứng khoán cho chính mình nhằm kiếm lời từ chênh lệch giá Thực hiện nhiệm vụ này là
những giao dịch viên hay những thương gia chứng khoán có đăng ký (registered dealers).
Khi thực hiện những nhiệm vụ này công ty phải gánh chịu những rủi ro , cho nên phải nghiên
cứu rất kỹ thị trường và các lại chứng khoán muốn mua hay muốn bán. Công ty phải tuân thủ
một số quy định sau:
- Công ty không được cạnh tranh trực tiếp với thân chủ và không được phép giữ quá 1%
nghạch số phát hành của bất cứ loại chứng khoán nào.Nghiêm cấm công ty mua bán cho
mình nhiều loại chứng khoán được phát hành bởi các hiệp hội các công ty chứng khoán với
tư cách là giám đốc hay quản trị viên .
+ Đại lý phát hành chứng khoán (distribuor): Công ty nhận phân phối chứng khoán ra thị
trường cho cơ quan phát hành để hưởng hoa hồng, khi thực hiện nghiệp vụ này thì :
Công ty không hứa mua trực tiếp số chứng khoán phân phối hộ . Công ty không hứa bán
với một giá nhất định. Công ty không hứa bán hết hay mua số chứng hoán không bán hết.
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán ( underwriter): Công ty thực hiện bảo lãnh phát hành
chứng khoán khi có một khả năng tài chính vững mạnh, thường đó là một tập đoàn tài chính
đứng ra đảm bảo thực hiện thành công việc phát hành chứng khoán với chủ thể phát hành
bằng cách :
Hứa mua toàn bộ hay một phần số cổ phiếu phát hành.
Đảm bảo bán với một giá nhất định.
Cam kết mua số cổ phiếu không bán hết.
Qua các nghiệp vụ trên của công ty chứng khoán cho thấy sự có mặt của các công ty này có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc kết nối những nguồn cung chứng khoán và nguồn cầu
chứng khoán. Chức năng này của công ty chứng khoán góp phần đẩy nhanh quá trình lưu
thông và phân phối chứng khoán , qua đó giúp cho quá trình giao lưu vốn trên thị trường
được thông suốt liên tục.
-Trung tâm thông tin và tư vấn cho các nhà đầu tư chứng khoán:
Với một đội ngũ chuyên gia chứng khoán thông thạo nghiệp vụ giỏi chuyên môn và nhiều
kinh nghiệm , công ty chứng khoán không chỉ đơn thuần hoạt động như người trung gian thực
hiện lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng mà còn là cố vấn thực sự cần thiết cho khách
hàng khi ra quyết định đầu tư.Để công việc tư vấn cho khách hàng đầu tư có hiệu quả, công
ty chứng khoán phải là nơi nắm bắt và cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, về
chứng khoán và về các chủ thể phát hành, xử lý phân tích các thông tin để làm cơ sở cho tư
vấn đầu tư.
Chức năng này được xem như một trong những tiêu chuẩn quyết định chất lượng hoạt
động của công ty môi giới, quyết định sự tín nhiệm của người đầu tư và đồng thời cũng quyết
định sự tồn tại của công ty trong quá trình cạnh trạnh.
- Can thiệp trên thị trường chứng khoán góp phần điều tiết giá chứng khoán.Theo quy định
của Uỷ ban chứng khoán quốc gia các nước phát triển. Các công ty chứng khoán nếu có
nhiệm vụ kinh doanh chứng khoán phi tham gia can thiệp trên thị trường chứng khoán để
điều tiết giá chứng khoán thông qua việc mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán giảm và
tung chứng khoán dự trữ ra khi giá chứng khoán tăng. Theo quyết định này kinh doanh
chứng khoán phải dành một tỷ lệ 60% giao dịch của mình cho hoạt động có tính chất ổn định
trên thị trường.
2.2 Công ty đầu tư
a- Khái niệm
Công ty đầu tư là một dạng doanh nghiệp của công ty cổ phần nó phát hành và bán cổ phiếu
để lấy vốn hoạt động. Đây là một loại doanh nghiệp đặc biệt nó không dùng vốn của mình để
mua máy móc, thiết bị và các yếu tố suất nhập xuất khác để tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh mà dùng vốn để đầu tư dài hạn qua góp vốn liên doanh mua cổ phần hoặc các loại
cổ phiếu khác với mục đích thu lợi nhuận. Hoạt động của công ty đầu tư là kinh doanh đầu tư
vốn bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.Đầu tử trực tiếp là việc các công ty dùng
vốn của mình để thâm nhập trực tiếp vào các công ty các dự án bằng cách góp cổ phần mua
cổ phiếu , phát hành với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên khác.
Đầu tư gián tiếp là việc các công ty đầu tư vốn của mình tham gia vào các thị trường chứng
khoán với các tư cách là một nhà kinh doanh chứng
khoán mua đi bán lại các chứng khoán nhằm hưởng chênh lệch gi hay nhận cổ tức từ các
công ty. Tuy nhiên công ty đầu tư không phải là thành viên của thị trường chứng khoán tập
trung do đó việc mua bán cổ phiếu của công ty đầu tư ở thị trường này phải thông qua các
công ty chứng khoán.
b) Phân loại quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư có nhiều loại khác nhau và mỗi quỹ đầu tư có đặc thù, một định hướng hoạt
động khác nhau nhưng có thể phân chia theo các cách sau:
- Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn quỹ đầu tư gồm hai loại :
+ Quỹ đầu tư dạng đóng ( close and funds) đây là quỹ đầu tư theo điều lệ quy định thường
chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ này có thể phát hành cổ phiếu
thông thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Ngoài ra quỹ không được phát hành thêm bất
cứ loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không được mua lại các cổ phiếu đã
được phát hành. Giá thị trường cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng phụ thuộc vào lượng cung
cầu như khi áp dụng đối với các loại chứng khoán khác chứ không trực tiếp liên quan đến giá
trị tài sản thuần (Net asset value - NAV) của mỗi cổ
phần. Vì thế,một quỹ đầu tư dạng đóng có thể bán theo giá cao hơn giá trị tài sản thuần hoặc
thấp hơn giá trị tài sản thuần. Quy mô vốn của các quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản
lợi nhuận thu được mà thôi.
+ Quỹ đầu tư dạng mở (open- endfunds) : Khác quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở
luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng thêm vốn và cũng sẵn sàng mua lại nhứng
cổ phiếu đã phát hành. Cổ phiếu này được bán trực tiếp cho công chúng thông qua thị trường
chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu chỉ cần viết thư hoặc điện thoại trực tiếp cho quỹ xin giấy
tờ cần thiết nên tạo cơ hội cho bất kỳ ai cũng có thể tham gia và trở thành chủ sở hữu của quỹ
. Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ đầu tư là cổ phiếu thông thường . So với quĩ đầu tư
dạng đóng thì quỹ đầu tư dạng mở rõ ràng có ưu thế hơn trong huy động , mở rộng qui mô
vốn do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn các dự án đầu tư
- Căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động, các quĩ đầu tư được chia làm :
+ Quỹ đầu tư chứng khoán dài hạn: Đối tượng của quỹ này khá đa dạng gồm cả đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp. Quỹ đầu tư chứng khoán ngắn hạn :Loại này chủ yếu đầu tư vào các
loại chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ .
+ Quỹ đầu tư hỗn hợp : Loại này thực hiện đầu tư cả vào chứng khoán ngắn hạn và chứng
khoán dài hạn . Đây là dạng quĩ đầu tư kết hợp cả hai dạng trên thực hiện đầu tư theo kiểu
này có ưu điểm là độ an toàn cao .
2.3--Công ty cổ phần
a/ Khái niệm : Công ty cổ phần là đơn vị kinh tế mà số vốn sở hữu được chia làm nhiều phần
bằng nhau. Những người tham gia hùn vốn vào công ty cổ phần được gọi là cổ đông . Cổ
đông góp vốn vào công ty cổ phần dưới hình thức mua cổ phần .Chứng từ ghi nhận số cổ
phần đóng góp của cổ đông là cổ phiếu .Công ty cổ phần sinh ra cổ phiếu do đó nó gắn chặt
với thị trường chứng khoán như hình với bóng
Công ty cổ phần là một đặc trưng của nền kinh tế thị trường .Nó có những đặc điểm sau:
-Vốn sở hữu của công ty cổ phần là vốn cổ phần mỗi cổ đông là một chủ sở hữu một phần
của doanh nghiệp tương đương với tỷ lệ vốn góp của mình
-Công ty cổ phần là một pháp nhân tồn tại độc lập với chủ sở hữu
-Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trong giới hạn số vốn cổ phần của
mình.
-Cổ đông có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần qua việc bán cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán
-Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn rất lớn.
-Công ty cổ phần có thể tồn tại qua nhiều thế hệ cổ đông.
-Công ty cổ phần pphát triển đã liên kết mở rộng các nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong và
ngoài nước cũng như huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong quần chúng .Đồng thời cũng phát
huy dược trình độ khả năng của các nhà
quản lý chuyên nghiệp tạo ra hiệu quả kinh tế lớn,tạo ra các tập đoàn kinh tế lớn có đủ sức
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
b/ Các hình thức tổ chức công ty cổ phần:
Trên thế giới hiện có hai loại công ty cổ phần
-Công ty cổ phần đại chúng (public company) được thành lập với số vốn chia thành nhiều cổ
phần bán cho công chúng .Cổ phiếu của loại hình công ty này thường là cổ phiếu vô danh để
có thể chuyển nhượng tự do và mua bán trên thị trường chứng khoán .
-Công ty cổ phần tư nhân (Private company) loại công ty này cũng chia vốn của mình thành
những cổ phần nhưng không được phép bán cổ phiếu cho công chúng .Các cổ phiếu do các
hội viên công ty nắm giữ và không được phép chuyển nhượng cho người khác trừ khi được
sự đồng ý của các thành viên khác
2.4/ Hàng hoá chứng khoán :
a/ Khái niệm : CK là các loại giấy có giá ,chứng nhận sự góp vốn hay cho vay dài hạn đối
với chủ thể phát hành .Đây là một công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo
nên một lượng vốn tiền tệ khổng lồ ,tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của nhà nước và tư nhân .Cũng như các
loại hàng hoá khác ,chứng khoán là loại hàng hoá đặc biệt lưu thông trên thị trường riêng của
nó: Thị trường chứng khoán.
b/ Phân loại chứng khoán:
- Căn cứ vào nội dung chứng khoán ta có thể chia ra thành chứng khoán nợ và chứng khoán
vốn :
+Chứng khoán nợ là giấy chứng nhận nợ do nhà nước hoặc doanh nghiệp phát hành khi cần
huy động vốn cho mục đích tài trợ dài hạn. Điển hình chứng khoán nợ là các loại trái phiếu
+Chứng khoán vốn là giấy chứng nhận góp vốn kinh doanh vào các công ty cổ phần .Đó là
các loại cổ phiếu ,gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
-Căn cứ vào hình thức chứng khoán được phát hành thì chứng khoán gồm có :
+ Chứng khoán vô danh: Trên các giấy chứng nhận nợ hay góp vốn không ghi tên người sở
hữu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán chuyển đổi trên thị trường chứng khoán.
+ Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu được ghi trong hồ sơ của
chủ thể phát hành cũng như trên các giấy tờ chứng khoán. Việc chuyển quyền sử hữu chứng
khoán này có phần khó khăn hơn loại chứng khoán trên .
- Căn cứ vào lợi tức chứng khoán người ta chia thành:
+ Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ nó được hưởng lợi
tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh giá chứng khoán .Điển hình của loại này là các
trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi .
+ Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà người giữ chứng khoán này
yêu cầu phải có lãi suất cao hơn nhiều so với mức lãi xuất ổn định. Điển hình của loại chứng
khoán này là cổ phiếu thường của các công ty cổ phần.
3) Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế:
Thị trường chứng khoán ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền
kinh tế mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Qua lịch sử phát triển của nền
kinh tế thị trường của các quốc gia phát triển, thị trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt đối với sự tăng trưởng một quốc gia. Cụ thể là:
- Công cụ tài trợ cho nền kinh tế: Vai trò quan trọng đầu tiên của thị trường chứng khoán là
thu hút tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để hình thành các nguồn vốn khổng lồ
có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển kinh tế.
Thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không chỉ vốn trong
nước mà cả ngoài nước. Đối với nước ta một nước có nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư chưa
được đưa vào sản xuất kinh doanh thì việc hoàn thiện thị trường chứng khoán là một chiến
lược phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu dài:
- Khuyến khích tiết kiệm, tạo thói quen để dành tích cực:
Thị trường chứng khoán tạo cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và
biết cách sử dụng tiền iết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu quả kinh tế thông qua việc
đầu tư vào các loại chứng khoán. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm nhỏ bé
nhưng tổng số tiền đó của xã hội sẽ lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào.
Mặt khá