Nam định là một tỉnh đồng bằng ven biển ( có bờ biển dài 72 km), ở
phía nam châu thổ Sông Hồng, diện itchs tự nhiên là 1671,6 km2. Với vị trí
cách thủ đô Hà Nội gần 90 km và gần khu vực tam giác tăng trưởng kinh tế
Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh nên tỉnh có nhiều điều kiện phối hợp với
quá trình phát triển mạnh mẽ của khu vực này.
Địa giới hành chính của tỉnh:
Phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam.
Phía Bắc giáp tỉnh Thái Bình.
Phía Đông giáp biển Đông.
Phía Tây giáp tỉnh Ninh Bình.
Nam Định có mạng lưới giao thông với đường sắt Bắc Nam đi qua dài
45 km. Tổng chiều dài đường bộ các loại là 3973 km, mật độ 2,37km/km2.
Trong những năm qua với chương trình nâng cấp cải tạo đường giao thông
của tỉnh, chất lượng các tuyến đường được nâng lên, việc đi lại, vận chuyển
thuận lợi. Chiều dài đường sông của 4 tuyến sông lớn là 217 km trong đó:
sông Hồng 60km, sông Đào 30km, sông Đáy 70km, sông Ninh Cơ 57km.
Bốn cửa sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng chảy ra biển ( cửa Ba Lạt, cửa
Hà Lạn, cửa Ninh Cơ, cửa Đáy). Nam Định là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội đi
bằng đường sông đi từ biển vào. Vùng ven biển và biển có cảng Hải Thịnh
với công suất 30 vạn tấn đã và đang xây dựng, tương lai sẽ lên 70 vạn tấn, sẽ
là điều kiện để giao lưu với các tỉnh bạn và quốc tế được dễ dàng.
62 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2034 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Nam Định giai đoạn 1996-2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
THỰC TRẠNG CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ
2
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ
I. CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.Nhận thức chung về cơ cấu kinh tế
1.1. Khái luận về cơ cấu kinh tế
Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái
niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “ cơ
cấu”. Cơ cấu là một phạm trù triết học dùng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ
lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành hệ thống. Cơ cấu được biểu
hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau
của một hệ thống nhất định. Nó biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật
hiện thượng nó biến đổi cùng với sự biến đổi sự vật, hiện tượng”. Vì thế khi
nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống.
Ở trên là khái niệm về cơ cấu, cũng như vậy đối với nền kinh tế quốc
dân, khi xem nó là một hệ thống phức tạp thì có thể thấy rất nhiều các bộ
phận và các kiểu cơ cấu hợp thành của chúng, tuỳ theo cách mà chúng ta tiếp
cận khi nghiên cứu.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể
hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của
nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác
qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện
kinh tế -xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định.
Theo quan điểm này cơ cấu kinh tế là phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ
cấu xã hội và chế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy
đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong những không gian và thời gian
nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, được thể hiện cả
về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng, phù hợp với
mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được bản chất chủ yếu
của cơ cấu kinh tế đó là các vấn đề:
Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của
một quốc gia.
Số lượng, tỷ trọng của các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành
hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
3
Các mối quan hệ thương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu
tố hướng vào các mục tiêu đã xác định.
Sự vận động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian luôn bao hàm
trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi của các kiểu
cơ cấu. Cho nên dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào cũng có thể thấy rằng.
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể những mối quan hệ về chất
lượng, số lượng giữa các bộ phận cơ cấu thành đó trong một thời gian và
trong những điều kiện kinh tế -xã hội nhất định.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế hình thành một cách khách quan: do trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Một cơ cấu kinh tế
mới trong từng thời kỳ bao giờ cũng dựa vào cơ cấu kinh tế của thời kỳ
trước để lại. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, sự
hoạt động của các quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức sản xuất sẽ
quyết định tính đặc thù về cơ cấu kinh tế của vùng, nước. Do vậy cơ cấu
kinh tế phản ánh quy luật chung của quá trình phát triển, nhưng những biểu
hiện cụ thể phải thích ứng với điều kiện của từng vùng, từng nước về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử. Không có một cơ cấu mẫu chung cho mọi
phương thức sản xuất, mọi vùng kinh tế hược đại diện chung cho nhiều nước
khác nhau; cũng không thể nóng vội, kìm hãm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
không phù hợp với yêu cầu và khả năng. Mỗi quốc gia, mỗi vùng có thể và
cần thiết phải lựa chọn cơ cấu kinh tế phù hợp với mỗi giai đoạn lịch sử phát
triển.
Cơ cấu kinh tế không thể cố định mà phải có sự biến đổi điều chỉnh và
chuyển dịch cho thích hợp với sự biến đổi các điều kiện kinh tế – xã hội và
tiến bộ khoa học công nghệ để đảm bảo quy mô và nhịp độ phát triển kinh
tế. Cơ cấu kinh tế luôn luôn vận động phát triển và chuyển hoá cho nhau
theo hướng ngày càng hoàn thiện. Cơ cấu kinh tế cũ chuyển dịch dần dần và
ra đời cơ cấu mới thay thế nó. Cơ cấu mới, sau một thời gian lại trở nên
không phù hợp. Cứ thế cơ cấu kinh tế vận động biến đổi không ngừng từ
đơn giản đến phức tạp, từ đơn điệu đến đa dạng và thêm hoàn thiện.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình. Không phải cơ cấu kinh
tế được hình thành ngay một lúc và lập tức thay thế cơ cấu cũ. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải là một quá trình tích luỹ về lượng, thay đổi
về lượng đến một mức nào độ nhất định mới dẫn đến thay đổi về chất. Trong
quá trình đó, cơ cấu cũ thay đổi dần dần và chuyển sang cơ cấu mới. Quá
trình này diễn ra nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có sự
tác đọng trực tiếp rất quan trọng của các chủ thể lãnh đạo và quản lý.Sự
nóng vội hay bảo thủ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều có hại đối
4
với sự phát triển của nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất thiết
phải là một quá trình nhưng không phỉa và không thể là một quá trình tự
phát với cac bước tuần tự, mà ở đó con người bằng nhận thức vượt trước và
am hiểuthực tế sâu sắc hoàn toàn có thể tạo ra những tiền đề, tác đọng cho
quá trình đó diễn ra nhanh hơn theo đúng hướng. Quan trọng là quá trình đó
bắt đầu từ đâu, dùng những biện pháp nào để bắt đầu, gây được tác động lan
truyền trong tổng thể nền kinh tế.
2.Phân loại cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng; muốn nắm vững được
bản chất cơ cấu kinh tế và thực thi giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế. Mỗi một
loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận và các cách mà
chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Nền
kinh tế quốc dân dưới giác độ cấu trúc là sự đan xen của nhiều loại cơ cấu
khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát triển kinh
tế. Những loại cơ cấu kinh tế cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của
nền kinh tế quốc dân bao gồm:
2.1. Cơ cấu ngành kinh tế:
Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ
giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh
phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi phân tích cơ cấu ngành của một
quốc gia người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành chính:
Nhóm ngành nông nghiệp: Gồm các ngành nông lâm, ngư nghiệp.
Nhóm ngành công nghiệp: Gồm các ngành công nghiệp và xây dựng
Nhóm ngành dịch vụ: Gồm thương mại, du lịch. . .
Chúng ta cần nghiên cứu loại cơ cấu này nhằm tìm ra cách thức duy trì tính
tỷ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung cao nguồn lực
có hạn của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhằm thúc đẩy sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất.
2.2.Cơ cấu vùng, lãnh thổ kinh tế:
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội
và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu vùng -lãnh thổ lại được hình thành
chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu vùng - lãnh
thổ kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một hệ thống
nhất và đều là biểu hiện cuả sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu vùng lãnh
thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế.
Trong cơ cấu vùng -lãnh thổ kinh tế có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong
5
điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Loại cơ cấu này phản ánh những
mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ của một đất nước trong hoạt động
kinh tế. Thông thường cơ cấu này bao gồm cơ cấu khu vực kinh tế thành thị
và nông thôn, khu vực kinh tế trọng điểm và phi trọng điểm, khu vực kinh tế
đồng bằng và miền núi.
2.3.Cơ cấu thành phần kinh tế:
Nếu như phân công lao động sản xuất đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành
và cơ cấu lãnh thổ - vùng, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành
phần kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là nhân tố tác động đến cơ cấu
ngành kinh tế và cơ cấu vùng - lãnh thổ. Sự tác động đó là biểu hiện sinh
động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Loại cơ cấu
này phản ánh các mối quan hệ giữa con người trong quá trình sản xuất sản
xuất trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ sở hữu đối với các tư liệu sản
xuất. Mô hình chung về số lượng thành phần kinh tế trong nền kinh tế các
nước bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn
hợp. Tỷ lệ giữa các thành phần kinh tế này thường không giống nhau. Điều
này tạo ra tính đặc thù trong chiến lước phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
cũng như trong mỗi giai đoạn phát triển của từng quốc gia.
Trên đây là ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế trong đó cơ cấu
ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả cơ cấu ngành và thành phần kinh
tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ
và trên phạm vi cả nước. Mặt khác việc phân bố không gian vùng một cách
hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần
kinh tế trên vùng, lãnh thổ kinh tế.
Ngoài ba cơ cấu cơ bản trên còn có các cơ cấu sau:
2.4.Cơ cấu xuất nhập khẩu:
Đó là loại cơ cấu phản ánh mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa xuất
khẩu và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của nền kinh tế. Ngày nay xu hướng
hội nhập để phát triển, không còn tồn tại nền kinh tế tự cung tự cấp trong
phạm vi một quốc gia mà mọi nền kinh tế đều có sự trao đổi lẫn nhau để
phát huy cao nhất lợi thế so sánh, cũng như khắc phục những điểm yếu trong
quá trình phát triển. Bởi vậy cơ cấu xuất nhập khẩu được xem như là tất yếu
khách quan của mọi nền kinh tế. Theo tiến trình chung có tính quy luật mà
mỗi nước phải trải qua trong quá trình chuyển đổi loại cơ cấu này là đi từ
nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao, tiếp theo sản xuất thay thế nhập khẩu, cuối
cùng là phát triển nền kinh tế theo định lượng xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu
chiếm tỷ trọng cao.
2.5.Cơ cấu công nghệ sản xuất:
6
Phản ánh số lượng và tỷ lệ các loại cộng nghệ đang và sẽ sử dụng trong nền
kinh tế. Một nền kinh tế thường sử dụng những loại công nghệ khác nhau:
công nghệ kém hiện đại, công nghệ hiện đại, công nghệ tiên tiến, công nghệ
sử dụng nhiều lao động, sử dụng ít lao động, công nghệ sạch, công nghệ gây
ô nhiễm. Vai trò, vị trí quan hệ tương hỗ và tỷ lệ giữa các loại công nghệ nói
trên trong quá trình phát triển nền kinh tế tạo thành cơ cấu công nghệ của
nền kinh tế đó.
2.6.Cơ cấu kết cấu hạ tầng:
Nền kinh tế quốc dân muốn phát triển phải có cơ cấu hạ tầng hợp lý, cơ cấu
kết cấu hạ tầng của nền kinh tế là số lượng, quan hệ tỷ lệ, vị trí, vai trò của
các ngành thuộc kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội. Thuộc các ngành cơ sở hạ
tầng kỹ thuật có ngành điện, giao thông, nước, thông tin liên lạc, các ngành
thuộc cơ sở hạ tầng xã hội gồm: giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, pháp lý.
Ngoài các loại cơ cấu kinh tế kể trên còn có nhiều loại cơ cấu khác nữa
nhưng trong phạm vi bài viết xin được chỉ nêu những cơ cấu cơ bản có sự
ảnh hưởng lớn đến cơ cấu ngành mà thôi.
3. Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế
Cơ cấu kinh tế là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại, phát triển kinh
tế các nước. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng phát triển thì phải hợp lý,
tiên tiến, đáp ứng nhu cầu đặt ra của thời đại không một nền kinh tế nào chỉ
dựa vào nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ. Cơ cấu kinh tế hợp lý cho
phép khai thông tạo động lực cho việc khai thác có hiệu quả nguồn lực trong
ngoài nước.
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất sao cho
thích nghi với quá trình phát triển là điểm mấu chốt, có tính chất quyết định.
Vấn đề đặt ra là chuyển dịch như thế nào để đạt hiệu quả tối ưu. Nói đến quá
trình phát triển kinh tế người ta thường quan tâm đến hiệu quả sử dụng các
nguồn lực hiện có, sự gia tăng các nguồn lực sản xuất theo thời gian và cách
thức phân phối sản phẩm và thu nhập cho các nhân tố sản xuất. Còn khi nói
đến cơ cấu của một nền kinh tế, ta thường quan tâm đến các thành phần có ý
nghĩa cơ bản, tồn tại lâu dài, là cơ sở cho những biến đọng có tính chất
thường xuyên trong đời sống kinh tế.Cơ cấu xã hội và kinh tế là cơ sở cho
những nhân tố quyết định phúc lợi vật chất của nhân dân.
Việc hình thành cơ cấu kinh tế được diễn ra theo hai quá trình tự phát và có
kế hoạch. Ngày nay để được thực hiện được mục tiêu tổng quát trong phát
triển kinh tế, chính phủ các nước chủ động xác định cơ cấu kinh tế trong
chiến lước phát triển của mình, giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế luôn là trọng
tâm của việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế các nước.
7
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế
Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm thực
hiện chuyển dịch cơ cấu ngành cơ cấu kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của
quản lý nhà nước về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải nghiên cứu
và phân tích kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành cơ cấu kinh tế.
4.1Nhóm các nhân tố khách quan
Nhóm các nhân tố tự nhiên: tài nguyên thiên nhiên( khoáng sản, hải sản,
lâm sản, nguồn nước .. .) và các điều kiện tự nhiên( khí hậu, thời tiết, bờ
biển ...) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công
nghiệp du lịch, ngư nghiệp và nông nghiệp...Chính Các Mác đã viết: “ Bất
cứ một nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những
đối tượng tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”. Tuy vậy,
việc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Thông thường ở
mỗi giai đoạn phát triển, người ta tập trung khai thác tài nguyên có lợi thế,
trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định... Như
vậy sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự
nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu.
Nhóm các nhân tố kinh tế – xã hội:
Dân số và lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh
tế. Sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế được xem xét trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học công
nghệ mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật
cao và nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh trong các ngành hoạt động,
là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học – kỳ thuật trong sản xuất.
Thứ hai, quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng
đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các
ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.
Thứ ba, sự phát triển của các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp
cũng như tong các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền
thống, phong tục của một địa phương. Sự phát triển và chuyển hoá các nghề
này gắn chặt với đội ngũ các nghệ nhân. Sản phẩm của các ngành nghề này
hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa chuông trên thi
trường quốc tế.
8
Vị trí địa lý cũng là một yếu tố phải được xem xét khi hình thành cũng như
định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Yếu tố này trở nên quan
trọng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế.
Sự phát triển của các loại thị trường: cần khẳng định ngay rằng thị
trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành. Bởi lẽ thi trường là yếu tố hướng dẫn và
điều tiết các hoạt động sản xuất – kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Mỗi
doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, xuất phát từ qua hệ cung cầu hàng
hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của
mình. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp để thích ứng với điều kiện của thị trường dẫn tới từng bước thúc đẩy
sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vậy sự hình thành và phát
triển đồng bộ các loại thị trường trong nước ( thị trường hàng hoá -dịch vụ,
thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ... ) có
tác động mạnh đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện phát
triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trường, điều kiện cho
thị trường và các hoạt động sản xuất –kinh doanh thông qua các chính sách
vĩ mô. Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nào là phụ
thuộc vào chiến lược và các định hướng phát triển của Nhà nước trong từng
thời kỳ có tính đến các yếu tố trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
-Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả
năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ
trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế)
mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công
nghiệp non trẻ công nghệ tiên tiến như: dầu khí, điện tử... do đó có triển
vọng phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ khoa học – công nghệ
cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao , chi phí kinh doanh hạ, do
đó co sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả làm cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập
khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Khoa hoạc và
công nghệ phụ thuộc 2 yếu tố:
Thứ nhất, chính sách khoa học- công nghệ của Đảng và Nhà nước.
9
Thứ hai, sự yếu kém của hệ thống kỹ thuật – công nghệ đang sử dụng
trong các ngành kinh tế quốcdân và khả năng hạn hẹp về vốn đầu tư cho đổi
mới kỹ thuật công nghệ.
-Nhóm các nhân tố bên ngoài như quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp
tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất ở
trong nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở mức
độ và phạm vi khác nhau. Trong trao đổi quốc tế mỗi nước đều phát huy lợi
thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá vào các ngành, lĩnh vực có
chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy quá trình phân
công lao động xã hội phát triển và kết quả là làm biến đổi cơ cấu kinh tế.
Đối với một tỉnh, cơ cấu kinh tế chụ sự chi phối bởi cơ cấu kinh tế cả nước,
ảnh hưởng của cơ cấu kinh tế của các tỉnh trong vùng như thị trường đầu ra,
thị trường đầu vào ...
Trong điều kiện quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế hiện nay,
cơ cấu kinh tế của một nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế các
nước trong khu vực. Khái quát hoá tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã
nêu lên một số đặc trưng quan trọng về biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiếu làn
sóng. Khi phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, dựa trên
những số liệu thống kê dài hạn Kamane Akamatsu đã sử dụng thuật ngữ “
đội ngỗng trời bay- flock fomation of flying wild geese pattern” để mô tả sự
nối tiếp tăng trưởng liên tục của các ngành trong cơ cấu kinh tế được xét cả
về mặt số lượng lẫn chu kỳ biến thiên trong quá trình xuất nhập khẩu. Năm
1963, kết hợp với sự phân tích của Akamatsu với chu kỳ sản phẩm của
Vesnon, Kojima đã đặt tên lại cho mô hình “Đàn ngỗng trời bay” là mô hình
“ chu kỳ đuổi kịp sản phẩm- catching up product cycle”. Mô hình này phản
ánh một thực tế sống động gọi là “hiệu ứng chảy tràn” về cơ cấu kinh tế từ
các quốc gia ở các nấc thang phát triển cao hơn sang quốc gia phát triển thấp
hơn. Sự quan sát thực tế cho thấy kh