Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoà tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là
một tất yếu khách quan. Quá trình chuyển đổi đó được bắt đầu từ đại hội VI năm
1986. Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay nền kinh tế nước ta đã thu được
rất nhiều thành tựu to lớn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa nước ta thoát khỏi sự trì trệ về phát
triển kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển mạnh hơn. Trong tương lai, có
thể nền kinh tế nước ta sẽ theo kịp được nền kinh tế của những nước phát triển
trên thế giới. Những thành công bước đầu của nền kinh tế có được là do Đảng và
nhà nước ta đã nhận ra rằng sự vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ chương chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường, nhưng nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế
thị trường thuần tuý mà là nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhà nước với
tư cách là ngư ời điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Vậy Nhà nước có
vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nhưng Nhà nước thự hiện chức nưng đó bằng
những công cụ gì và thực hiện như thế nào? đó là vấn đề làm tôi quan tâm và đi
sâu vào tìm hiểu vấn đề nà. đề án sẽ đề cập đến những vấn đề: Tính tất yếu
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Vai trò quản lý của nhà nước
đối với nền kinh tế. Và một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh
tế của nhà nước. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
25 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3094 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính tất yếu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tính tất yếu chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN
Lời nói đầu
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoà tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là
một tất yếu khách quan. Quá trình chuyển đổi đó được bắt đầu từ đại hội VI năm
1986. Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay nền kinh tế nước ta đã thu được
rất nhiều thành tựu to lớn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa nước ta thoát khỏi sự trì trệ về phát
triển kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển mạnh hơn. Trong tương lai, có
thể nền kinh tế nước ta sẽ theo kịp được nền kinh tế của những nước phát triển
trên thế giới. Những thành công bước đầu của nền kinh tế có được là do Đảng và
nhà nước ta đã nhận ra rằng sự vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ chương chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường, nhưng nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế
thị trường thuần tuý mà là nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhà nước với
tư cách là người điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Vậy Nhà nước có
vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nhưng Nhà nước thự hiện chức nưng đó bằng
những công cụ gì và thực hiện như thế nào? đó là vấn đề làm tôi quan tâm và đi
sâu vào tìm hiểu vấn đề nà. đề án sẽ đề cập đến những vấn đề: Tính tất yếu
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Vai trò quản lý của nhà nước
đối với nền kinh tế. Và một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh
tế của nhà nước. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Phần I
Sự cần thiết và tính tất yếu của việc chuyển đổi nèn kinh tế từ kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế thị trường có sụ quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN
I - Kinh tế kế hoạch hoá tập trung những ưu điểm và nhược điểm
1- ưu điểm
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước
XHCN cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở
nông thôn và thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ
tận tình của các nước XHCN cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được
tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công
cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vậ chất quan trọng
về đất đai, tài sản, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế. Vào những năm đầu
của thập kỷ, ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ
đầu, nền kinh tế tậpt rung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp vốn có
của ta lúc đó, đồng thời nó cũng thích hợp với kinh tế thời chiến lúc đó.
2 - Nhược điểm.
Sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế xã hội đã
thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp
tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp
tục chủ trương xây dựng nên fkt tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi
cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý
kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng
tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản
lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản
xuất của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng
các nguồn tài nguyên đó. tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô
nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc
đó gây ra rất nhiều hậu qủa xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều
khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ
nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đàu tư
chủ yếu dựa vào vay viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo
thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị
giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa
về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã rập khuôn một mô hình kinh tế
chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên mô lớn
trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và
đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân
số ngày càng một gia tăng.
- Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép:
khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa
phân phối lại một cách gían tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
- Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của
người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu
người lao động.
II - sự cần thiết phải chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta.
Trước sự suy thoái k nghiêm trọng viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt
nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hộiVI của Đảng đã chủ
chương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế hạch
toán kinh doanh XHCN. Đến Đaih hội VII Đảng ta xác định roc việc đổi mới cơ
chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc
đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về
nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo
của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó
phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời
đại.
- Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế
cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ
vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tàm mươi đã chỉ rõ
thự hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên lục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản
lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất
không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của Xã họi đạt mức rất thấp, tích luỹ hầu
như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
- Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo
chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những
không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh
ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
- Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị
trường, Về vấn đề này có nhiều ý kiến đáng giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng
thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành
và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và vùng
hẻo lãnh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta
phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường
lao động thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức
độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
- Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà
nhập với nền kinh tế thị trường thé giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư
trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với
nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong nước gần
gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
- Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của
môix nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa
các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân
đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia là
tảoa đượcnhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh
tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở
thành thức đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để
bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ không phải là nền
kinh tế thị trường thuần túy. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là
không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình”, vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc
phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đối
với nứoc ta vait rò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan
trọng.
Phần II
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Những đặc trưng cơ bản
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
I - Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với
nền kinh tế.
Tại sao Chính phủ phải can thiệp vào nền kinh tế ? Adam Smith, một nhà
kinh tế học đã lập luận trong tác phẩm kinh điển của mình vào năm 1776, cuốn
“của cải các dân tộc”, rằng người ta trong khi theo đuổi lợi ích riêng của mình
dường như được “một bàn tay vô hình” dẫn dắt để tăng thêm lợi ích cho xã hội,
nếu như thị trường phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả sao cho các nhu
cầu của người tiêu dùng được thoả mãn với chi phí tối thiểu, thì tại sao Chính phủ
lại can thiệp vào nền kinh tế để làm gì ? Nhà kinh tế học bắt đầu từ cuốn “của cải
các dân tộc” của Adam Smith. Song với tư tưởng cho rằng, nguồn gốc của sự giàu
có mỗi dân tộc nằm ở sự tự do kinh tế, Adam Smith về thực chất chưa nhìn thấy
sự phát triển . Theo ông nền kinh tế phát triển được, xã hội giàu có được là nhờ tự
do cạnh tranh, còn vai trò của nhà nước chỉ bao hàm ở việc bảo vệ quyển sở hữu
thông qua luật pháp, đảm bảo hoạt động cho các nhà kinh doanh và chống thù
trong giặc ngoài , bảo đản môi trường ổn định cho nhà nước cũng có chức năng
kinh tế nhất định, như chăm lo tới những việc đào sông, đắp đường...Nhưng nhing
chung Adam Smith vẫn thiên về ý tưởng coi nhà nước chỉ là “người bảo vệ”,
“người canh gác” cho nền kinh tế.
Quả thật tư tưởng ủng hộ nèn kinh tế thị trường từ do cỉa Adm Smith và các
nhà kinh tế học thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thị
trường phát triển. Song sự phát triển tự do cũng gây nên những tệ nạn như khủng
hoảng thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, bất nình đẳng. Từ đó dẫn đến khủng
hoảng chính trị, xã hội sâu sắc, đe doạ sự tổn hại của chủ nghĩa tư bản đương thời.
Trong bối cảnh đó nhiều nhà kinh tế học thế kỷ XIX đã đưa ra những tư tưởng
Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế. Nổi bật là tư tưởng của Karl marx (1818 -
1883) kế thừa quan điểm của những nhà không tưởn Châu âu đầu thế kỷ XIX,
K.Mark nhìn nhận nguyên nhân sâu xa của những khủng hoảng thất nghiệp, phân
hoá, bất bình đẳng thừ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chế độ
tư hữu này đã phân chia xã hội thành hai giai cấp tư sản và vô sản. Giai cấp tư sản
là người nắm trong tay về tư liệu sản xuất. Họ là chủ sở hữu, có quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng, quyền định đoạt về tư liệu sản xuất và những kết quả của sản xuất.
Còn giai cấp vô sản là những người bị tước hết tư liệu sản xuất. Để sống họ phải
bán sức lao động cho nhà tư bản chủ nghĩa và quan hệ giữa tư bản và lao động cho
nhà tư sản và họ bị bóc lột giá trị thặng dư. Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và
quan hệ giữa tư bản và lao động như vậy làm cho nền kinh tế phát triển tự do, vô
chính phủ lâm vào tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, phân hoá bất bình đẳng.
Để khắc phục những tệ nạn đó giai cấp vô sản phải thông qua cách mạng xã hội
về tư liệu sản xuất, từng bước tiền dần tời một xã hội phồn thịnh, bình đẳng và văn
minh.
Có nhiều người đã đi theo con đường của Kmark và nhiều nơi trên thế giới
đã tiền lên xây dựn XHCN, mà nền tảng của xã hội mà nền tảng của đó là chế độ
sở hữu ch về tư liệu sản xuất.
Mặc dù có nhiều cách lý giải khác nhau, sự thể hiện có những đặc điểm
riêng biệt, song những người theo tư tưởng này đều cho rằng, thông qua sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất, nhà nước nắm được các điều kiện vật chất của sản xuất từ
đó sẽ tổ chức quản lý thống nhất nền kinh tế, đưa nó vận hành theo định hướng
của nhà nước.
Đầu những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nôt ra
năm 1929 - 1933 đã chứng tỉo rằng “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những
điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá
sản xuất phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng cần
phải có sự cân thiệp của n vào quá trình hoạt động của nền kinh tế điều tiết nền
kinh tế. Nhà kinh tế người Anh Jonh Meynard keynes (1884 - 1946) đã đưa ra ký
thuyết nhà nước điều tiết kinh tế thị trường.
Tư tưởng nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường của Keynes xuất phát từ
chỗ cho rằng, sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập, do đó làm
tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng chậm
hơn so với thu nhập.
Vì vậy, cầu giảm xuống. Sự giảm sút cầu tiêu dùng hay tiêu dùng không đủ
sẽ kéo theo sự giảm sút của giá cả hàng hoá, từ đó làm cho tỷ xuất lợi nhuận giảm
xuống. Nếu tỉ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất vay thì các chủ đầu tư, họ
sẽ không dẫn nền kinh tế đi đến chỗ trì trệ, khủng hoảng và là cho nạ thất nghiệp
ngày càng tăng.
Để khắc phục tình trạng đã nêu, nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế,
can thiệp vào thị trường, phải mở ra các cuộc đầu tư lớn. Có làm như vậy mới huy
động được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh
doanh, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu
tăng lên sẽ làm sản xuất tăng nhanh, nhờ đó mà điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và
tình trạng thất nghiệp. Theo thuyết của trường phải Keynes, nhà nước can thiệp
vào kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô nhà nước sử dụng các công cụ
như lãi suất, chính sách tín dụng điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát thuế, bảo
hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển v..v...ở tầm vi mô nhà nước trực tiếp phát triển các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Tóm lại nền kinh tế thị
trường lý tưởng là nền kinh tế - Trong đó các hàng hoá và dịch vụ tự nguyện trao
đổi bằng tiền theo giá thị trường. Hệ thống này cho phép tạo lợi ích tối đa từ các
nguồn tiềm năng sẵn có của xã hội mà không cần sự can thiệp của chính phủ.
Nhưng trên thực tế không có nền kinh tế nào hoàn toàn là lý tưởng của “bàn tay vô
hình”. Mỗi nền kinh tế đèu có những khuyết tật dẫn đến những căn bệnh như ô
nhiễm, thất nghiệp, chênh lệch giàu nghèo quá mức nên bất cứ nơi nào trên thế
giới không có chính phủ, dù bảo thủ tới đâu lạ không nhúng tay vào nền kinh tế.
II - Vai trò nhà nước Việt nam trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý.
1 - Nhà nước ta quản lý kinh tế hay làm kinh tế.
Mặc dù không có nhà nước đứng trên nền kinh tế hay ngoài nền kinh tế
nhưng phải nhấn mạnh rằng nhà nước theo nguyên nghĩa của từ này “các nhà chủ
nô, phong kiến, tư sản cổ điển không làm kinh tế hay “quản lý nền kinh tế “ khi
chủ thể của hoạt động này ý thức được rằng: Tài nguyên là khan hiếm một cách
tương đối do đó các giá trị sử dụng cũng khan hiếm một cách tương đối cho dù đát
nước ở bất kỳ trình độ phát triển nào trên thang bậc của nền văn minh nhân loại.
Chính vì vậy chính phủ luôn phải lựa chọn các phương án phát triển kinh tế - xã
hội sao cho với một nguồn lực hiện như đang có của nền kinh tế có khả năng thoả
mãn một cách tốt nhất nhu cầu của dân cư về hàng hoá và dịch vụ, các doanh
nghiệp phải lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh sao cho đạt được lợi
nhuận tối đa. Tuy nhiên, sự khácnhau giữa nhà nước với doanh nghiệp (kể cả
doanh nghiệp nhà nước) chỉ là ở chỗ:
- Các doanh nghiệp làm kinh tế theo nghĩa của từ này: tính hiệu quả kinh tế
bằng thước đo lợi nhuận.
- Nhà nước không “làm kinh tế”như doanh nghiệp làm nhà nước quản lý vĩ
mô nền kinh tế tức là: Lựa chọn phương án phát triển kinh tế - xã hội can thiệp,
điều khiển mỗi hi nền kinh tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế
- chính trị - xã hội bên trong và bên ngoài.
2 - Vai trò kinh tế của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường .
Cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường là do tác động của qui luật giá
trị và cạnh tranh. ở đâu tồn tại các điều kiện về môi trường vủa kinh tế sẽ vận hành
theo cơ chế của nó. Mọi sự đều vận động theo một qui chế hay một phương thức
nhất định. Trong mỗi nền kinh tế có cơ chế hoạt động từ bản thân của nó và sự
quản lý nền kinh tế ấy.
Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế và
đã làm cho các qui luật khách quan hệ trao đổi ngang bằng giá trị méo mó, phân
phối hàng tiêu dùng theo định hướng quan hệ cung cầu của hàng triệu con người
bằng kế hoạch chủ quan, hạn chế cầ, giảm nhu cầu vô hạn của dân chúng xuống
thấp hơn năng lự của họ phân phối vạt tư theo định lượng thực chất là làm giảm
cung vì các yếu tố đầu vào ít thì làm sao có sản phẩm đầu ra tăng lên. Để ổn định
kinh tế, Nhà nước đã chú trọng giải quyết việc làm cho tất cả, tăng biên chế theo
kiểu biên chế suốt đời, không còn có sự cạnh tranh nào nữa, thực ra là đã làm giảm
năng suất lao động xã hội xuống và cũng không còn động lực cho sự phát triển vì
mọi lợi ích đã tự xã hội hoá. Do sự can thiệp quá lớn các nền kinh tế chỉ huy đã bị
thất bại.
Trong nền kinh tế hốn hợp, các nhà nước đã lựa chọn kiều lượng can thiệp
của mình vào trong thị trường một cách thích hợp hơn. Có ba loại can thiệp của
mình vào trong thị trường một cách thích hợp hơn. Có ba loại can thiệp ở các mức
độ khác nhau:”điều tiết” “điều khiển”và quản lý. Trước đây trong nền kinh tế chỉ
huy cơ chế kinh tế của chúng ta đã cho nhà nước quản lý. Nhà nước đã quản lý tư
liệu sản xuất, quản lý giá cả và quản lý việc phân phối tiền lương, thu nhập. Nay
khi đã chuyển sang cơ chế thị trường quyết định. Nhà nước quản lý kinh tế hiệ nay
hoàn toàn khác với cơ chế cũ. ở đây nn phải điều chỉnh thị trường bằng các công
cụ thuế, chi tiêu tài chính, lãi xuát và luật pháp. Do vậy mà trong cơ chế thị trường
của ta, sự điều tiết của nhà nước bằng các công cụ gián tiếp là chủ yếu. Ngoài ra
nhà nước cũng phải nắm trong tay một lực lượng kinh tế quốc doanh đủ mạnh, có
hiệu quả và được xen như là một lực lượng kinh tế cho đất nước.
Vai trò quản lý của nhà nước vào cơ chế thị trường những công cụ gián tiếp
không có nghĩa là giảm vai trò của nhà nước trong việc quan rlý kinh tế ch ở nước
ta. Ngược lại , vai trò của nhà nước rất lớn là yeu cầu rất cao. Khi việc quản lý, vĩ
mô của nhà nước mạnh, nhà nước đủ sức can thiệp một cách giản tiếp vào thị
trường thông qua các công cụ của mình nhưng lại rất hiệu qủa đối với nền kinh tế.
Ví dụ, Nhà nước không cần kiểm soát thông qua việc đặt giá, nâng giá mà thông
qua công cụ thuế , luật chống độc quyền, chống đầu cơ buôn lậu, chống hàng gỉ và
nhiều biện pháp kế hoạch hoá vùng, lãnh thổ quy hoạch đô thị quy hoạch xây
dựng nhà ở, kết cấu hạ tầng, xây dựng chiến lược và kế hoạch đào tạo nguồn nhân
lực con người, kế hoạch lựa chọn công nghệ mới cũng sẽ làm tăng rất nhanh
nguồn lực của đất nước. Vai trò can thiệ của nhà nước trong việc ổn định và phát
triển nền kinh