Doanh nghiệp (DN) là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam hiện
nay, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở chỗ:
DNNN chi phối các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế,
góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, để kinh tế nhà nước nói chung, DNNN nói riêng thực sự
giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của
DNNN. Giải pháp cơ bản để thực hiện được mục tiêu này là tăng cường chất lượng công
tác quản trị kinh doanh trong các DNNN.
Kế toán, với vị trí là công cụ không thể thiếu phục vụ cho quản lý kinh tế tài chính
cần phải được các DNNN sử dụng một cách hợp lý, đúng đắn nhằm phát huy tối đa vai trò
của nó trong hệ thống quản lý kinh tế. ở nước ta, hệ thống kế toán hiện hành đã có những
thay đổi cơ bản so với hệ thống kế toán trước đây, đã tiếp cận những thông lệ, chuẩn mực
kế toán quốc tế và bao gồm một số nội dung của kế toán quản trị (KTQT). Tuy nhiên,
những thay đổi bước đầu đó mới chỉ thỏa mãn phần lớn nhu cầu thông tin theo quy định
của Bộ Tài chính, nhằm chủ yếu đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
kinh tế tài chính của DN. Công tác KTQT phục vụ cho mục đích quản trị DN vẫn còn là
một vấn đề chưa được xem xét, nhìn nhận đúng với vị trí và vai trò vốn có của nó.
KTQT là công cụ quản lý vi mô không thể thiếu phục vụ cho quản trị DN mới chỉ
được đề cập tới trong các tài liệu nghiên cứu và bước đầu xuất hiện một cách sơ lược trong
Luật Kế toán, chưa được những người hành nghề kế toán thực hiện một cách đầy đủ, các
nhà quản trị DN quan tâm sử dụng, thậm chí còn bỡ ngỡ cả trong nhận thức về vai trò, chức
năng và cách thức tổ chức thực hiện.
Đề tài "Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam hiện nay" được chọn nghiên cứu với mong muốn góp phần bổ sung thêm
những vấn đề lý luận về KTQT các yếu tố đầu vào, đưa ra một số biện pháp để tổ chức
thực hiện KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN.
101 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2063 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu
vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp (DN) là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam hiện
nay, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở chỗ:
DNNN chi phối các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế,
góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, để kinh tế nhà nước nói chung, DNNN nói riêng thực sự
giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của
DNNN. Giải pháp cơ bản để thực hiện được mục tiêu này là tăng cường chất lượng công
tác quản trị kinh doanh trong các DNNN.
Kế toán, với vị trí là công cụ không thể thiếu phục vụ cho quản lý kinh tế tài chính
cần phải được các DNNN sử dụng một cách hợp lý, đúng đắn nhằm phát huy tối đa vai trò
của nó trong hệ thống quản lý kinh tế. ở nước ta, hệ thống kế toán hiện hành đã có những
thay đổi cơ bản so với hệ thống kế toán trước đây, đã tiếp cận những thông lệ, chuẩn mực
kế toán quốc tế và bao gồm một số nội dung của kế toán quản trị (KTQT). Tuy nhiên,
những thay đổi bước đầu đó mới chỉ thỏa mãn phần lớn nhu cầu thông tin theo quy định
của Bộ Tài chính, nhằm chủ yếu đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
kinh tế tài chính của DN. Công tác KTQT phục vụ cho mục đích quản trị DN vẫn còn là
một vấn đề chưa được xem xét, nhìn nhận đúng với vị trí và vai trò vốn có của nó.
KTQT là công cụ quản lý vi mô không thể thiếu phục vụ cho quản trị DN mới chỉ
được đề cập tới trong các tài liệu nghiên cứu và bước đầu xuất hiện một cách sơ lược trong
Luật Kế toán, chưa được những người hành nghề kế toán thực hiện một cách đầy đủ, các
nhà quản trị DN quan tâm sử dụng, thậm chí còn bỡ ngỡ cả trong nhận thức về vai trò, chức
năng và cách thức tổ chức thực hiện.
Đề tài "Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam hiện nay" được chọn nghiên cứu với mong muốn góp phần bổ sung thêm
những vấn đề lý luận về KTQT các yếu tố đầu vào, đưa ra một số biện pháp để tổ chức
thực hiện KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh
(KD) thì việc quản trị đúng đắn, hợp lý các yếu tố đầu vào của DN có vai trò vô cùng quan
trọng. Để đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời trong việc quản trị các yếu tố đầu vào,
nhà quản trị DN cần phải có nhiều thông tin: thông tin thực hiện, thông tin dự báo... KTQT
với đặc điểm riêng của mình đã đáp ứng những yêu cầu về thông tin của quản trị trong
từng DN.
Với vai trò quan trọng như vậy, KTQT các yếu tố đầu vào đã và đang là vấn đề
được giới chuyên môn quan tâm. Các nhà nghiên cứu, các giảng viên trong các trường đào
tạo chuyên ngành đang còn nhiều quan điểm khác nhau về lý luận cũng như việc áp dụng
trong các DN.
Thực tế ở Việt Nam, kế toán trong các DN chưa nhận thức đúng đắn về KTQT nói
chung và KTQT các yếu tố đầu vào nói riêng nên chưa cung cấp được các thông tin cần
thiết phục vụ cho quản trị. Nhận thức đúng vai trò, chức năng, mục đích của KTQT các
yếu tố đầu vào trong quản trị DN; tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào một cách khoa học,
hợp lý, sẽ góp phần nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành KD và hiệu quả hoạt
động của các DN.
Xuất phát từ những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài "Tổ chức kế toán quản trị các
yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay" vừa có ý nghĩa lý
luận, vừa mang tính thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào
trong các DN.
- Tìm hiểu thực tế công tác kế toán ở một số DNNN trên địa bàn Hà Nội, đánh giá
thực trạng tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào
trong các DNNN.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Với mục đích đã xác định, luận văn tập trung
nghiên cứu, hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức KTQT
các yếu tố đầu vào trong các DNNN. Trong đó tập trung chủ yếu vào các DN sản xuất và
yếu tố đầu vào được quan tâm nghiên cứu là nguyên liệu vật liệu (NLVL).
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: Dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu các vấn đề một cách toàn diện, hệ thống và cụ thể.
- Phương pháp thực hiện: Vận dụng các phương pháp như: phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh... Nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài
nước, học hỏi các thầy cô giáo giảng dạy ở các môn học liên quan đến quản trị DN, tìm
hiểu các tài liệu thực tế về công tác kế toán của một số DNNN trong lĩnh vực sản xuất
(SX). Do KTQT có mục tiêu chủ yếu là cung cấp thông tin phục vụ cho việc quản trị ở nội
bộ DN cho nên cần thiết phải tìm hiểu một số phương pháp, kỹ thuật quản trị tác nghiệp
đối với các yếu tố đầu vào của DN.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào
trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị về tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong
các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Chương 1
Những vấn đề chung về tổ chức kế toán quản trị
các yếu tố đầu vào trong Doanh Nghiệp
1.1. ý nghĩa của việc quản trị các yếu tố đầu vào đối với doanh nghiệp
1.1.1. Các quan điểm về yếu tố đầu vào của doanh nghiệp
Vận dụng quan điểm toàn diện vào khoa học và cuộc sống, người ta đã hình thành
lý thuyết hệ thống. Lý thuyết hệ thống là quá trình sử dụng tổng hợp các lĩnh vực khoa học
như: toán học, tin học, lôgic học, kinh tế... nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra theo quan điểm
toàn diện. Lý thuyết hệ thống được ứng dụng rộng rãi trong công tác quản lý, từ quản lý vĩ
mô cho tới quản lý vi mô.
Những bộ phận chủ yếu của một hệ thống bao gồm: các phần tử của hệ thống,
môi trường của hệ thống, đầu vào của hệ thống, đầu ra của hệ thống.
DN khi được nhìn nhận theo quan điểm là một hệ thống cũng bao gồm các bộ
phận đã nêu trên.
Đối với bộ phận "đầu vào" của DN, có nhiều quan niệm, nhiều cách phát biểu
khác nhau.
Theo các tác giả của Trường Đại học kinh tế quốc dân:
Doanh nghiệp cần được nhìn nhận như một hệ thống xã hội, một hệ
thống kinh doanh. Điều đó có nghĩa là mọi khái niệm, mọi nguyên lý, mọi
phương pháp trong lý thuyết hệ thống đều có thể được vận dụng trong nghiên cứu
và giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp.
Đầu vào của doanh nghiệp là các phương tiện cần thiết để cho doanh
nghiệp hoạt động, bao gồm:
- Nguồn nhân lực (lao động và thị trường chất xám) cung ứng các loại
nhân lực cho doanh nghiệp.
- Nguồn vốn đảm bảo cung cấp tài chính cho doanh nghiệp.
- Thị trường tư liệu sản xuất và dịch vụ để phục vụ cho các hoạt động
tạo ra đầu ra (sản phẩm và dịch vụ mới cho doanh nghiệp).
- Thị trường năng lượng và nguyên liệu tạo ra động lực và cung cấp
nguyên liệu cho sản xuất.
- Thị trường công nghệ và kỹ thuật để tạo ra các công nghệ và kỹ thuật
mới thích hợp.
- Thị trường chất xám, thông tin (dịch vụ, tư vấn) [20, tr. 37-38].
Như vậy, theo quan điểm này, các yếu tố đầu vào của DN bao gồm: sức lao động,
tư liệu SX, vốn... và các yếu tố đầu vào này đều có thể mua bán được trên thị trường, tức là
có thể lượng hóa được bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, các tác giả trình bày nội dung còn
có sự trùng lặp giữa “thị trường tư liệu sản xuất” với “thị trường năng lượng và nguyên
liệu”; giữa “nguồn nhân lực (lao động và thị trường chất xám)” với thị “trường chất xám”
làm cho người đọc khó phân biệt, dễ nhầm lẫn.
Theo tác giả Nguyễn Hải Sản:
Khi xem xét doanh nghiệp dưới quan điểm hệ thống người ta cho rằng
doanh nghiệp là một tổng thể bao gồm các yếu tố đầu vào, quá trình chế biến,
chế tạo, và các yếu tố đầu ra. Tổng thể này chịu sự điều chỉnh của các thông tin
phản hồi và tất cả đều nằm trong một môi trường kinh doanh cụ thể.
Các yếu tố đầu vào bao gồm: tài sản cố định, nguyên liệu, nguồn nhân
lực, tài chính và nguồn thông tin được đưa vào sản xuất chế biến [17, tr. 52-53].
Quan điểm này tương tự như quan điểm của trường Đại học Kinh tế quốc dân, chỉ
khác về ngôn từ diễn đạt. Trong quan điểm này, tác giả coi thông tin là một nguồn lực của
DN. Đó là một cách hiểu đúng đắn vì trên thực tế các nhà quản trị phải có được thông tin
thì mới đề ra được các quyết định quản lý phù hợp và thông tin ngày càng có vai trò quan
trọng trong công tác quản lý nói chung, công việc quản trị DN nói riêng.
Theo quan điểm của trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội (nay là Học viện
Tài chính):
Đối với doanh nghiệp, đầu vào là:
1. Tiền vốn.
2. Tổ chức lao động.
3. Công nghệ, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu.
4. Trình độ, phẩm chất, tiềm năng của nhà quản lý.
5. Thị trường, thông tin và các ràng buộc vĩ mô trong kinh doanh
6. Các cơ hội và rủi ro [21, tr. 23-24].
Theo quan điểm này, nhìn nhận các yếu tố đầu vào của DN trong môi trường KD
cụ thể, gắn liền với các điều kiện KD, có tính đến các yếu tố chưa thể lượng hóa đo lường
bằng các thước đo như: trình độ, phẩm chất, tiềm năng của nhà quản lý.
Theo các nhà kinh tế nước Cộng hòa Pháp, các yếu tố đầu vào và đầu ra của DN
được thể hiện qua sơ đồ 1.1 (trang 8) [23, tr. 26].
Theo quan điểm này các yếu tố đầu vào của DN gồm lao động, tài sản cố định
(TSCĐ), nguyên liệu vật liệu (NLVL), hàng hóa, dịch vụ, tiền vốn và các yếu tố này đều
được lượng hóa bằng thước đo tiền tệ.
Qua việc phân tích các quan điểm trên chúng tôi nhận thấy thuật ngữ các yếu tố
đầu vào của DN có nghĩa rất rộng dùng để chỉ tất cả các yếu tố, các nguồn lực mà DN đã
sử dụng trong quá trình hoạt động để tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đầu ra của
DN. Đứng trên giác độ của kế toán khi thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các yếu tố
đầu vào của DN chỉ có thể xem xét tới các yếu tố đầu vào có thể lượng hóa được vì đặc
trưng của thông tin kế toán là thông tin phải được lượng hóa bằng các thước đo (thước đo
hiện vật, thước đo lao động, thước đo giá trị, trong đó thước đo giá trị là chủ yếu).
Với nội dung và phạm vi của các yếu tố đầu vào rộng như vậy nên luận văn chỉ tập
trung xem xét tới các yếu tố đầu vào là NLVL, sức lao động và TSCĐ của DNNN trong
lĩnh vực SX.
1.1.2. ý nghĩa của việc quản trị các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp
Quản lý là hoạt động tất yếu khách quan là sự tác động có tổ chức của chủ thể
quản lý lên đối tượng bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã định trước. Quản lý được tiến
hành trong mọi lĩnh vực của xã hội, cả ở tầm vĩ mô (toàn xã hội) và cả ở tầm vi mô (trong
từng đơn vị). Khi sử dụng thuật ngữ quản lý người ta thường gắn liền với đối tượng bị
quản lý như quản lý kinh tế, quản lý hành chính, quản lý nhân sự...
Thuật ngữ quản trị (trong tiếng Anh là management) vừa có nghĩa là quản lý, vừa
có nghĩa là quản trị nhưng được dùng chủ yếu với nghĩa quản trị. Ngoài ra, tiếng Anh còn
có một thuật ngữ nữa là administration với nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính
quyền. Tiếng Pháp cũng có hai từ: gestion là quản trị kinh doanh và administration là quản
lý hành chính. Như vậy có thể hiểu quản lý là thuật ngữ được dùng đối với các cơ quan
nhà nước trong việc quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng, còn quản trị là
thuật ngữ được dùng để chỉ các hoạt động quản lý ở cấp cơ sở. Đối với các DN người ta sử
dụng thuật ngữ quản trị kinh doanh.
Quản lý và quản trị có điểm chung là lôgíc giống nhau của vấn đề quản lý, nhưng
điểm khác nhau là nội dung và quy mô cụ thể của vấn đề quản lý đặt ra: một bên là phạm
vi toàn xã hội, một bên là phạm vi trong từng cơ sở.
Quản trị kinh doanh là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh
nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một
cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đạt
được những mục tiêu đầu ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội [ 20, tr. 41].
Để hoạt động của các đơn vị nói chung, các DN nói riêng đạt được hiệu quả cao
thì cần thiết phải tiến hành các hoạt động quản trị.
Các chức năng chủ yếu của quản trị là: xác định mục tiêu, lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra đánh giá.
Quản trị các yếu tố đầu vào là một nội dung của công tác quản trị DN.
Việc quản trị đúng đắn các yếu tố đầu vào sẽ giúp cho DN đảm bảo được hoạt
động của mình một cách bình thường, liên tục, không bị gián đoạn. Với một đầu ra xác
định, việc quản lý khoa học, hợp lý các yếu tố đầu vào sẽ tạo cơ sở để DN tiết kiệm chi phí
đầu vào từ đó tăng hiệu quả hoạt động của DN nói riêng, hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân nói chung.
Những biểu hiện cụ thể của việc quản trị đúng đắn có hiệu quả các yếu tố đầu vào
là:
- Đối với các yếu tố đầu vào là sức lao động: Đảm bảo bố trí, sử dụng lao động
hợp lý, đầy đủ cả về số lượng và chất lượng phục vụ cho hoạt động KD của DN. Nâng cao
ý thức, trách nhiệm của người lao động, kích thích thi đua trong lao động...
- Đối với các yếu tố đầu vào là NLVL, hàng hóa: Đảm bảo số lượng, chất lượng,
chủng loại, quy cách... NLVL, hàng hóa cần thiết phục vụ SXKD một cách kịp thời, liên
tục với chi phí dự trữ NLVL, hàng hoá hợp lý góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả KD của DN.
- Đối với các yếu tố đầu vào là TSCĐ: Trang bị TSCĐ hợp lý, bảo quản tốt, sử
dụng có hiệu quả phát huy tối đa năng lực phục vụ của TSCĐ trong DN, đổi mới kịp thời
TSCĐ đáp ứng yêu cầu hoạt động của DN.
1.2. Nhiệm vụ của kế toán trong việc phục vụ quản trị các yếu tố đầu vào của
doanh nghiệp
Để quản trị DN có hiệu quả, nhà quản trị cần phải có những thông tin về DN.
Không thể thực hiện công việc quản trị DN khi không biết các thông tin về tình tài chính
của DN như: tổng tài sản, tổng nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu... chứ chưa nói đến việc
quản trị có hiệu quả. Do đó, thông tin đã được coi là một thứ "quyền lực" trong quản trị hiện
đại. Được coi là quyền lực, một nguồn lực, thông tin phải có giá trị. Các tiêu thức để xác định
giá trị của thông tin bao gồm: chất lượng, sự phù hợp, khối lượng và tính kịp thời. Tuy nhiên,
không giống các nguồn lực vật chất, việc xác định giá trị của thông tin là một công việc
không dễ dàng, bởi thông tin không có giá trị nội tại. Giá trị của thông tin được xác định bởi
chính những người sử dụng nó để ra quyết định. Các nhà quản trị và các nhân viên thuộc
tất cả các cấp và tất cả các lĩnh vực chuyên môn của DN đều có những nhu cầu thông tin
khác nhau. Có thể mô hình hóa thông tin mà nhà quản trị cần để phục vụ cho việc quản trị
DN bằng sơ đồ 1.2.
Sơ đồ 1.2: Tiến trình xử lý, sử dụng thông tin phục vụ quản trị DN
Theo mô hình này để đưa ra các quyết định, nhà quản trị cần biết được các thông
tin nên xuất hiện các nhu cầu về thông tin. Để đáp ứng nhu cầu này đòi hỏi phải có các dữ
liệu về thông tin theo nhu cầu của nhà quản trị. Để có được các dữ liệu thông tin này cần
Quyết định
Các nhà quản
trị
và nhân viên
Thông tin
Phân tích
quyết định
Yêu cầu về
thông tin
Truyền dữ
liệu
Ngân hàng
dữ liệu
Xử lý và
sắp xếp dữ
Thu thập
dữ liệu
Xác định
nhu cầu dữ
Các nguồn
dữ liệu bên
trong và bên
Thành phần
Hoạt động
Dòng cung cấp
Dòng yêu cầu
Doanh
nghiệp
có phải tiến hành thu thập dữ liệu. Nguồn cung cấp dữ liệu có thể từ bên trong DN (dữ liệu
về tình hình hàng tồn kho, tình hình công nợ, lợi nhuận... của DN), dữ liệu từ bên ngoài
DN (tình hình giá cả thị trường, tình hình về các đối thủ cạnh tranh, các chế độ chính sách
về quản lý kinh tế tài chính hiện hành...). Trên cơ sở các dữ liệu thu thập được sẽ tiến hành
việc xử lý và sắp xếp dữ liệu để trở thành ngân hàng dữ liệu của DN. Các dữ liệu cần sử
dụng sẽ trở thành thông tin và được phân tích, đánh giá để nhà quản trị đề ra được các
quyết định quản trị đúng đắn.
Từ mô hình trên chúng ta nhận thấy vai trò quan trọng của thông tin đối với công
tác quản trị DN: Nhà quản trị không thể đề ra được các quyết định quản trị đúng đắn khi
thiếu thông tin về hoạt động mà họ đang quản lý.
Kế toán với tư cách là "khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về
tài sản và sự vận động của tài sản hay toàn bộ thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế
tài chính của đơn vị" [1, tr. 10] đã trở thành công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh
tế nói chung, quản trị trong các DN nói riêng. Vai trò của kế toán được thể hiện ở chỗ: Kế
toán là phân hệ thông tin kinh tế tài chính quan trọng, cung cấp các thông tin về hoạt động
kinh tế tài chính của DN để trên cơ sở đó những nhà quản trị DN có các quyết định đúng
đắn để hoạt động của DN đạt hiệu quả cao.
Đối với việc quản trị các yếu tố đầu vào, nhà quản trị cần rất nhiều thông tin do kế
toán cung cấp, trong đó với đặc điểm là cung cấp thông tin chủ yếu cho việc quản trị nội
bộ DN, KTQT có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp các thông tin. Vai trò đó được
đảm bảo nhờ vào việc thực hiện các nhiệm vụ của KTQT các yếu tố đầu vào. Các nhiệm vụ
đó là:
- Ghi chép tính toán phản ánh đầy đủ chính xác tình hình hiện có về các yếu tố đầu
vào của DN cũng như tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào đó.
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch về các yếu tố đầu vào: tình hình dự trữ, sử
dụng NLVL, tình hình trang bị, sử dụng TSCĐ, sử dụng lao động; phát hiện và ngăn ngừa
kịp thời các hành vi làm ảnh hưởng tới việc sử dụng không hiệu quả các yếu tố đầu vào.
- Cung cấp số liệu tài liệu phục vụ cho việc quản trị các yếu tố đầu vào ở DN, phục vụ
cho công tác thống kê và thông tin kinh tế về các yếu tố đầu vào. Đồng thời cung cấp các
thông tin mang tính dự báo về tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào để phục vụ cho việc đề ra
các quyết định về quản trị các yếu tố đầu vào.
1.3. Tổ chức Kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong Doanh nghiệp
1.3.1. Sự xuất hiện của kế toán quản trị
Kế toán là một công cụ phục vụ cho yêu cầu quản lý, vì vậy khi yêu cầu quản lý
thay đổi kế toán cũng phải có sự thay đổi phù hợp.
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, nhu cầu về thông tin trong công
tác quản lý đã có sự gia tăng rất lớn và đa dạng do áp lực của những thay đổi
nhanh chóng về các mặt:
- Toàn cầu hóa nền kinh tế.
- Sự mở rộng giao lưu kinh tế giữa các quốc gia.
- Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các công ty trong nước, giữa
các công ty ở các quốc gia khác nhau.
- Sự tiến bộ nhanh chóng về khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự tự động hóa
ngày càng toàn diện trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- Sự ra đời ngày càng nhiều các công cụ quản lý, các chuyên ngành
khoa học hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý, công tác kế toán.
Chính những điều này đã làm cho kế toán phát triển sâu rộng hơn về tính
chất và đặc điểm thông tin cần phải cung cấp. Kế toán không chỉ dừng lại ở việc
cung cấp thông tin mang tính nguyên tắc mà đòi hỏi phải linh hoạt, kịp thời,
hữu ích. Đồng thời, thông tin kế toán cũng phải đảm bảo tính ngắn gọn, nhanh
chóng nhằm hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản trị trong môi trường kinh doanh mới
[14, tr. 10].
Trong bối cảnh