Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, ngời đợc bảo hiểm là
William Gybbon. Nh vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhng lại không có điều kiện phát
triển ở một số nớc do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống nh một trò chơi nên bị nhà
thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con ngời, nên BHNT phải tồn tại dới nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con
ngời đợc cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật
nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra
đời ở Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhng ban đầu nó chỉ bán
bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh
đợc thành lập và bán BHNT cho mọi ngời dân.
Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm
Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời
và phát triển cho đến nay.
27 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2128 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ
Tổng quan về bảo hiểm
nhân thọ
1. Lịch sử ra đời của BHNT.
1.1. Trên thế giới:
Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, ngời đợc bảo hiểm là
William Gybbon. Nh vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhng lại không có điều kiện phát
triển ở một số nớc do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống nh một trò chơi nên bị nhà
thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con ngời, nên BHNT phải tồn tại dới nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con
ngời đợc cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật
nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra
đời ở Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhng ban đầu nó chỉ bán
bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh
đợc thành lập và bán BHNT cho mọi ngời dân.
Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm
Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời
và phát triển cho đến nay.
1.2.Tại Việt Nam
Ở nớc ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trớc đây và Tổng công ty Bảo Hiểm Việt
Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu tiên của Nhà nớc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính
thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho tới trớc năm 1993, ở nớc ta chỉ có một doanh
nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài
chính Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nớc ta đã thực hiện công cuộc đổi mới về
kinh tế, từng bớc đa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trờng
có sự quản lý của Nhà nớc, tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh
tế mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển,
đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp tác
với nớc ngoài...”. Đờng lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thi trờng với định hớng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thơng
mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính phủ nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành
nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên
đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh tế thị trờng. Nghị định này là
bớc ngoặt quan trọng tuyên bố chấm dứt sự độc quyền Nhà nớc về kinh doanh bảo hiểm
tại Việt Nam. Theo nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà
nớc, doanh nghiệp cổ phần, Hội bảo hiểm tơng hỗ, công ty liên doanh với nớc ngoài, chi
nhánh hay công ty 100% vốn nớc ngoài. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự
do hoá” và mở cửa thị trờng Việt Nam.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những năm
qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm. Với sự ra đời
của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan
tâm của các cơ quan Nhà nớc tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ BHNT
hơn 5 năm, nhng những gì BVNT Việt Nam đạt đợc trong thời gian đó rất đáng ghi nhận.
Tạo nên cho ngời dân Việt Nam một phong tục sống mới, một hình thức tiết kiệm mới.
Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nớc ngoài thị trờng
BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp cho ngời dân có thể lựa
chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay thì đã có 5 công ty BHNT
hoạt động trên thị trờng bảo hiểm Việt Nam đó là:
- Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nớc, đồng thời có
số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh doanh là 55 triệu USD,
phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ hạn
- Manulife là công ty 100% vốn nớc ngoài của Canada khai trơng hoạt động 12/6/1999,
vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50 năm.
- Prudential là công ty 100% vốn nớc ngoài của Anh quốc đây là công ty BHNT đầu t
vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai trơng hoạt động ngày
29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm.
- Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công ty bảo hiểm TP
Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trơng hoạt động ngày 12/10/1999, vốn đăng ký kinh
doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm.
- AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nớc ngoài của Mỹ khai trơng hoạt động 22/2/2000,
vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50 năm.
Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực tạo ra
hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo hiểm
trong xã hội Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT)
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh
chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên đợc ghi vào lịch sử là năm 1583,
ở thị trờng Luân đôn một nhóm ngời đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ đợc trả cho
ngời nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng nh trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày
dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhng con ngời vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi
ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ nh:
- Các rủi ro do môi trờng thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ
thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con
ngời nhng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ nh tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn
lao động...
- Các rủi ro do môi trờng xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra
rủi ro cho con ngời, khi xã hội càng phát triển thì con ngời càng có nguy cơ gặp nhiều rủi
ro nh thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thờng đem lại cho con ngời những khó
khăn trong cuộc sống nh nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh hởng
đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con ngời đã có nhiều biện pháp
khác nhau nhằm kiểm soát cũng nh khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm
biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa
tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thờng đợc sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm
thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và
giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn
ngừa hết đợc hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo
hiểm. Đây là các biện pháp đợc sử dụng trớc khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các
hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con ngời phải đối phó với
những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa cho
nên bảo hiểm là phơng pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan
trọng trong các chơng trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng nh cá nhân. Theo quan
điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng.
Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do
việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng
xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất.
Nh vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con ngời.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển
cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu của
ngời dân các nớc phát triển cũng nh các nớc đang phát triển. Ở châu Á, những năm gần
đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân, tạo nguồn đầu t dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng
vay vốn nớc ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2001
doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho
ngân sách nhà nớc, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội nh vấn đề thất nghiệp, vấn đề
giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì
hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trờng hợp ngời chủ công ty
phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thơng tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đờng lối đổi mới dới
sự lãnh đạo của Đảng, đất nớc ta đã đạt đợc những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa
rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra đợc những cơ sở vật chất
thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nớc, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới:
"Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội văn
minh".
Cùng với tốc độ tăng trởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp
hơn tốc độ tăng trởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt
đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với ngời dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào
ngân hàng thì thờng rất ít khả năng để đầu t những khoản tiền nhàn rỗi. Nh vậy cùng với
việc tăng nhanh số lợng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nớc cần phải có giải pháp, chính
sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu t phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa
bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động đợc một lợng vốn không nhỏ trong dân. Tuy
bớc đầu, lợng ngời tham gia bảo hiểm cha lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm
cao cũng cha nhiều, nhng đã mở ra thêm cho ngời dân một cách thức tiết kiệm mới đồng
thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu t cho đất nớc.
3. Vai trò của BHNT
3.1. BHNT đối với nền kinh tế
Để đánh giá đợc đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trớc hết chúng ta cần hiểu rõ
khái niệm về BHNT:
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa ngời bảo hiểm và ngời tham gia bảo hiểm, mà
trong đó ngời bảo hiểm sẽ trả cho ngời tham gia (hoặc ngời thụ hởng quyền lợi bảo hiểm)
một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trớc xảy ra (ngời đợc bảo hiềm bị chết
hoặc sống đến một thời điểm nhất định) còn ngời tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ,
đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng,
cuộc sống và tuổi thọ con ngời.
BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc qia:
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho ngời tham gia hoặc ngời đợc
hởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không thể lờng trớc
trong cuộc sống mỗi con ngời, xã hội càng phát triển càng có nhiều cơ hội nhng cũng đồng
nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con ngời dẫn đến những bất ổn về tài chính cho
cá nhân gia đình cũng nh xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản
thân hoặc ngời thân, gia đình của bạn sẽ dợc đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào
những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua một số loại hình
sản phẩm khác nh bảo hiểm trợ cấp hu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. ngời tham gia vẫn nhận đợc
số tiền bảo hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con ngời.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc và tăng thêm
quyền lợi cho ngời lao động.
Trớc đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nớc phải chi ra một lợng tiền
khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro dới hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau
trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nớc, đôi khi
lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng vì đã có ngời khác chịu trách nhiệm giúp mình đối
với cả cá nhân cũng nh tổ chức. Ngày nay khi BHNT ra đời, ngời tham gia đã có thể tự
bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản tiết kiệm
(không may rủi ro xảy ra, bên cạnh các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH ngời lao động còn
đợc hởng quyền lợi từ BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hu trí tụ
nguyện ngời lao động còn đợc hởng khoản trợ cấp hu trí, tụ lo đợc cho bản thân giảm gánh
nặng cho gia đình cũng nh xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu t hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trng cũng nh quyền lợi to lớn khi tham
gia BHNT mà ngày nay ngời ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà lợng vốn đợc
huy động từ dân chúng đợc tăng lên. Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công nghiệp
hoá - hiện đại hoá” đất nớc để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phảI có một lợng vốn đầu t
rất lớn. Chính vì nhận thức đợc tầm quan trọng của BHNT nên tuy mới ra đời đợc 5 năm
nhng Nhà nớc ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều kiện cho BHNTngày một
phát triển mà bớc tiến quan trọng là sự cho phép các công ty BHNT nớc ngoài tham gia
vào thị trờng BHNT Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là
một trong các biện pháp của Nhà nớc nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu t phát
triển Đất nớc với chủ trơng là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại lực,
chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có thể trong thời gian tới dần dần sẽ thu hút
đợc nguồn vốn nhàn rỗi trong dân c vì lợng tiền này đợc dự kiến sẽ lên tới hơn 10 tỷ (đợc
dự trữ dới dạng ngoại tệ cũng nh vàng). Ngoài ra, khi các công ty BHNT nớc ngoài tham
gia vào thị trờng BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu t vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó,
do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy động đợc có thể đem đầu t
trong một thời gian dài đây là đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế
lớn.
Thứ t: BHNT tạo ra một số lợng lớn công ăn việc làm cho ngời lao động.
Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lợng sinh viên ra trờng
cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng khi mà lợng
ngời không có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngoài những ngời không có trình độ
thì cũng có rất nhiều ngời có trình độ không đợc sử dụng đúng mục đích. Hoạt động
BHNT cần một mạng lới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học,
tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy, phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều
công ăn việc làm, giảm bớt số lợng ngời thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà
nớc. Cứ nói riêng ở công ty BHNT Hà Nội, với số lợng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên
đến trên dới 50 ngời, riêng nội thành đã có 16 phòng khai thác, đa số đấy đều là các cán bộ
chuyên nghiệp cha kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện, ngoài
ra BHNT còn có 60 công ty khác ở khắp các quận huyện trong cả nớc.
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu t hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo nên một
tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nớc đang phát triển, đầu t cho giáo dục là rất quan trọng và phải coi
là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một tăng thì nguồn
lực của các nớc này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo dục nh kêu gọi
đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong vá ngoài nớc, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều
mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện pháp hợp
lý để đầu t cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thờng xuyên của gia đình. Đây
cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu t cho tơng lai con
em mình không chỉ là trách nhiệm của Xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo cho
mỗi ngời thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tơng lai của ngời thân, đồng thời giáo
dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với ngời khác.
Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho ngời thân
đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con ngời là nhân tố quyết định sự phát
triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lợc, chính sách về con ngời là vô cùng quan trọng, thực
hiện BHNT chính là thực hiện chiến lợc phát triển toàn diện con ngời của Đảng và Nhà
nớc.
Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội
nh giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong cuộc
sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với ngời lao động, ngời cao tuổi....
3.2. BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm
3.2.1. BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất
Bảo hiểm thơng mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo hiểm
hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và
một vài ngời trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là một biện pháp hữu
hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm đang ngày càng trở thành
một tác nghiệp không thể thiếu đợc đối với các chủ doanh nghiệp, một thói quen tốt trong
dân chúng.
Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc nh bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm
hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại hình bảo hiểm hết
sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra đời khá lâu là BHNT với
lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị trờng bảo
hiểm nói chung.
3.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể
thiếu đợc trên thị trờng BH.
Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không ngừng
tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ BH. Tuy nhiên
tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu nh ở châu Mỹ Latinh phí BH từ hoạt
động kinh doanh BHNT rất thấp, chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở châu Âu phí BHNT đạt tỉ
lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đơng chiếm
52,3% trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH.
Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải thừa
nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của mình trong
thị trờng BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh tế thế giới nói
chung.
4. Những đặc điểm cơ bản của BHNT.
4.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi nhân
thọ, tham gia BHNT ngời mua có trách nhiệm nộp phí BH cho ngời BH theo định kỳ đồng
thời ngời bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn (STBH) cho ngời hởng quyền
lợi bảo hiểm nh đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả
khi ngời đợc bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định, hoặc cho ngời thừa hởng khi ngời
đợc bảo hiểm tử vong trong thời hạn đợc bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt
tình cảm nhng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một cách
thờng xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm khác với các
loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, ngời bảo hiểm không những tích luỹ về mặt tài chính mà
còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho bản thân thì vẫn đợc đảm bảo
về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của BHNT mà các loại hình tiết kiệm khác
không có dợc. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang
tính bảo vệ.
4.2 BHNT đáp ứng đợc rất nhiều mục đích khác nhau của ngời tham gia bảo hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng đợc một mục đích là góp
phần khắc phục hậu quả khi đối tợng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa mang tính
bảo vệ