Quá trình đổi mới và hoà nhập của Việt Nam đã đạt được những
thành công điều này đã làm cho đất nước có những chuyển biến đáng kể,
nhất là sự chuyển biến của nền kinh tế. Sự chuyển biến này đã làm cho
các quan hệ kinh tế trở nên sống động đa dạngvà phức tạp hơn - Bản chất
của các quan hệ kinh tế hoạt động với mục tiêu là lợi nhuận, do vậy đối
với các doanh nghiệp thì cạnh tranh và lợi nhuận là hai nhân tố có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Doanh nghiệp nào cạnh tranh càng nhiều thì
có nhiều cơ hội thu được nhiều lợi nhuận hơn và ngược lại Doanh nghiệp
nào cạnh tranh ít thì sẽ ít cơ hội hơn dẫn đến ít thu được lợi nhuận hơn.
Thực trạng cho thấy trong nước cạnh tranh ngày càng gay gắt nhất
là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau( giữa các doanh nghiệp
trong nước với nhau , các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp
nước ngoài).Yêu cầu đặt ra là để hoà giải tranh chấp này thì cơ quan, tổ
chức nào có thẩm quyền đứng ra hoà giải? Đối với nước ta hiện nay thì
phương thức giảI quyết tranh chấp chủ yếu là giải quyết theo con đường
toà án kinh tế –giảI quyết bằng con đường này sẽ làm cho các doanh
nghiệp sẽ mất đI uy tín, bí mật kinh doanh của họ,cho nên họ không muốn
sử dụng phương thức này mặc dù họ vẫn biết lợi ích của mình vẫn đang bị
xâm phạm dẫn đến sân chơI này không được áp dụng rộng rãi. Để đáp
ứng nhu cầu này thì Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam đã được thành
lập bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam có thẩm quyền
giảI quyết các tranh chấp kinh tế nếu có sự thoả thuận của nguyên đơn và
bị đơn. Trên thế giới phương thức giảI quyết tranh chấp này được áp
dụng rất rộng rãI nhưng ngược laị ở Việt Nam thì phương thức giảI quyết
tranh chấp này vẫn còn có những hạn chế nhất định do luật pháp của
chúng ta chưa cho trung tâm trọng tàI quốc tế Việt Nam những biện pháp
có những biện pháp cưỡng chế khác.
33 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1970 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trọng tài kinh tế - Một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
TRỌNG TÀI KINH TẾ-
MỘT HÌNH THỨC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP
KINH TẾ
2
Lời Nói Đầu
Quá trình đổi mới và hoà nhập của Việt Nam đã đạt được những
thành công điều này đã làm cho đất nước có những chuyển biến đáng kể,
nhất là sự chuyển biến của nền kinh tế. Sự chuyển biến này đã làm cho
các quan hệ kinh tế trở nên sống động đa dạngvà phức tạp hơn - Bản chất
của các quan hệ kinh tế hoạt động với mục tiêu là lợi nhuận, do vậy đối
với các doanh nghiệp thì cạnh tranh và lợi nhuận là hai nhân tố có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Doanh nghiệp nào cạnh tranh càng nhiều thì
có nhiều cơ hội thu được nhiều lợi nhuận hơn và ngược lại Doanh nghiệp
nào cạnh tranh ít thì sẽ ít cơ hội hơn dẫn đến ít thu được lợi nhuận hơn.
Thực trạng cho thấy trong nước cạnh tranh ngày càng gay gắt nhất
là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau( giữa các doanh nghiệp
trong nước với nhau , các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp
nước ngoài).Yêu cầu đặt ra là để hoà giải tranh chấp này thì cơ quan, tổ
chức nào có thẩm quyền đứng ra hoà giải? Đối với nước ta hiện nay thì
phương thức giảI quyết tranh chấp chủ yếu là giải quyết theo con đường
toà án kinh tế –giảI quyết bằng con đường này sẽ làm cho các doanh
nghiệp sẽ mất đI uy tín, bí mật kinh doanh của họ,cho nên họ không muốn
sử dụng phương thức này mặc dù họ vẫn biết lợi ích của mình vẫn đang bị
xâm phạm dẫn đến sân chơI này không được áp dụng rộng rãi. Để đáp
ứng nhu cầu này thì Trung tâm trọng tàI quốc tế Việt Nam đã được thành
lập bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam có thẩm quyền
giảI quyết các tranh chấp kinh tế nếu có sự thoả thuận của nguyên đơn và
bị đơn. Trên thế giới phương thức giảI quyết tranh chấp này được áp
dụng rất rộng rãI nhưng ngược laị ở Việt Nam thì phương thức giảI quyết
tranh chấp này vẫn còn có những hạn chế nhất định do luật pháp của
chúng ta chưa cho trung tâm trọng tàI quốc tế Việt Nam những biện pháp
có những biện pháp cưỡng chế khác.
3
TRỌNG TÀI KINH TẾ-MỘT HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH TẾ
PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI QUÁT CHUNG TRỌNG TÀI KINH TẾ.
I.SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TÀI TRIỂN CỦA TỔ CHỨC TRỌNG TÀI.
1.Khái niệm về trọng tài kinh tế.
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó một
bên thứ ba độc lập ( thông thường là hội đồng phân xử ) sẽ xem xét lí lẽ
của hai bên và sau đó đưa ra quyết định có giá trị ràng buộc đối với cả hai
bên .
Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế , các tranh chấp kinh tế giữa
công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau,
liên quan đến việc thành lập, hoạt động , giải thể công ty , các tranh chấp
liên quan đến việc mua bán cổ phiếu , trái phiếu.
2.Nguồn gốc tranh chấp.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, Việc thiết lập nên các
quan hệ dân sự,thương mại, kinh doanh…phải xuất phát từ ý chí của các
chủ thể tham gia. Sự thống nhất ý chí đó được thể hiện thông qua nhiều
hình thức giao kết, có thể bằng văn bản hoặc bằng miện. Dù ở hình thức
nào, kể từ thời điểm các giao kết đã được chấp thuận có ngihã là các bên
đã thẻ hiện sự tự do ý chí và thống nhát ý chí thì các bên phải có nghĩa vụ
thực hiện những điều khoản đã cam kết, kể từ thời diểm đó sẽ phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các chủ trong một quan hệ pháp luật nhất định.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên cũng thưc hiện đầy đủ những điều
khảo đã cam kết. Chính vì vậy đã làm phát sinh các quan hệ ttranh chấp.
4
Việc phát sinh các quan hệ tranh chấp do nhiều nguyên nhân những
nguyên nhân đó có thể do khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán, về
chế độ chính trị…
Trong các loại tranh chấp hiện nay thì tranh chấp kinh doanh là một
trong những loại tranh chấp mang những nét đặc thù gần tựa với hoạt
đọng sản xuất kinh doanh nếu tranh chấp kinh doanh là sự bất đồng, mâu
thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể, là yếu tố khách quan trên
thương trường thì việc xác định, giải quyết những tranh cháp đó là việc
làm không thể thiếu được, nhằm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể tham gia. Đó là những cách thức, phương thức để áp dụng giải
quyết theo cácquy tắc chung, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của
mọi khu vực, của mỗi quốc gia.
Khi tranh chấp phát sinh các bên đều có thể tiến hành lựa chọn cho
mình một phương thức, một phương pháp giải quyết phù hợp. Tuy luạt
pháp của các nước có những quy định riêng khác nhau về vấn đề này,
song tựu chung lại hiện nay có 3 hình thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh cơ bản đó là:
+ Giải quyết thông qua thương lượng hoà giải giữa các bên.
+Giải quyết thông qua con đường toà án.
+giải quyết bằng phương pháp trọng tài.
Mỗi một hình thức giải quyết có những nét đặc thù riêng biệt,thể hiện rõ
bản chất của nó. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển
hiện nay, xu hướng giải quyết bằng trọng tài ngày càng được các nhà kinh
doanh áp dụng.
3.Sự ra đời của trọng tài kinh tế ở Việt nam.
Trọng tài kinh tế xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của
chế độ hợp đồng kinh tế. Năm 1960, sau khi cuộc khôI phục kinh tế hoàn
thành thắng lợi, đã cảI tạo cơ bản xong nền kinh tế , thủ tướng chính phủ
đã ban hành NĐ số 04/TTg ngày 4/1/1960 ban hành kèm theo điều lệ tạm
thời về hợp đồng kinh tế . Mười ngày sau đó, TTg cũng ban hành NĐ số
20/Ttg ngày 14/1/1960 về việc tổ chức ngành trọng tàI kinh tế, theo nghị
5
định này trọng tài kinh tế được tổ chức ở cấp Trung Ương, khu, thành
phố, tỉnh và Bộ với chức năng chủ yếu là xét xử các tranh chấp hợp đồng
kinh tế và nguyên tắc xử lý tranh chấp hợp đồng kinh tế được quy định
trong NĐ số 29/ CP ngày 23/2/1962. Hội đồng trọng tàI chỉ là một tổ
chức gồm các thành viên kiêm chức ở các ngành tàI chính ngân hàng, vật
giá , kế hoạch và hoạt động theo chế độ họp định kỳ mỗi quý một lần.
Năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 Ban chấp hành Trung Ương đảng quyết
định “ xoá bỏ lối hành chính cung cấp, thực hiện quản lý kinh doanh theo
phương thức XHCN, khắc phục quản lý thủ công , phân tán theo lối sản
xuất nhỏ , xây dựng các thuwc tổ chức của nền công nghiệp lớn” Và tiếp
đó , cuối năm 1973, NQ số 22 của chính phủ đề ra nhiệm vụ “phảI tăng
cường pháp chế XHCN” . Thực hiện các quyết định đó của ban chấp hành
trung ương đảng ,chính phủ đã ban hành NĐ số 54/CP ngày 10/3/1975 về
chế độ hợp đồng kinh tế và ngày 14/4/1975 chính phủ ban hành NĐ số
75/CP về điều lệ tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế nhà nước.
Theo nghi định này , trọng tài kinh tế được thành lập như một cơ quan
nhà nước có chức năng quản lý công tác hợp đồng kinhđkinh tế với nội
dung:giữ vững kỷ luật của nhà nước về hợp đồng kinh tế , giải quyết các
tranh chấp hợp đồng kinh tế và xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế . Với
nghị đdịnh số 24/HĐBT ngày 10/8/1981 hội đồng trọng tàI được thống
nhất tên gọi là trọng tài kinh tế.
Với sự ra đời của “Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế” thì có nhiều mối
quan hệ mới phát sinh , đòi hỏi phảI có những quy định mới để điều chỉnh
các loại quan hệ này. Đáp ứng yêu cầu đó, Hội đòng nhà nước đdã ban
hành pháp lệnh về trọng tài kinh tế , qui định về tổ chức , phân cấp thẩm
quyền , thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế .
4. Chức năng và nhiệm vụ của trọng tài kinh tế.
Trọng tài kinh tế có những chức năng và nhiệm vụ sau:
-Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế.
-Kiểm tra , kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế tráI pháp luật.
6
-Tuyên truyền , hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và
trọng tài kinh tế .
-Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh
tế .
Chức năng và nhiệm vụ của trọng tài kinh tế được thực hiện chủ yếu
thông qua hai hình thức hoạt động chủ yếu đó là hoạt động kiểm tra xử lý
và hoạt động xét xử.
Trọng tài kinh tế là cơ quan quản lý có chức năng quản lý kinh tế , nên
hoạt động của trọng tài kinh tế phần lớn tập trung vào việc kiểm tra hoatj
động kinh tế nhằm giám sát việc tuân thủ pháp luật của các đơn vị kinh tế
trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Còn hoạt động xét xử của
trọng tài kinh tế đối với những hành vi ,vi phạm hợp đồng kinh tế vừa rất
ít , vừa kém hiệu lực thi hành vì thiếu tính cưỡng chế.
II.Tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế .
1.Thẩm quyền của trọng tài kinh tế.
Trọng tài kinh tế có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau:
Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân , giữa
doanh nhân với doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp tư nhân với
doanh nghiệp tư nhân và giữa pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân với cá
nhân kinh doanh.
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty , giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giảI thể công ty như tranh chấp đòi rút vốn ra khỏi công ty, phân chia lãI
lỗ, nhập, tác, giảI thể công ty về quyền và nghĩa vụ của thành viên công
ty.
Tranh chấp liên quan đến việc mua ,bán cổ phiếu -tráI phiếu.
2.Tiêu chuẩn trọng tàI viên.
Trong tàI viên là người có trình độ đại học luật hoặc tương đương
đại học luật và có ít nhất 8 năm liên tục làm công tác pháp luật và kinh tế.
7
Những người không có đủ điều kịên trên hay có đủ điều kiện đó nhưng
lại đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng điều
khiển hành vi của mình theo sự giám định của các tổ chức y tế thì không
được trở thành trọng tàI viên.
3.Thủ tục cấp và thu hồi giấy phép thành lập trọng tài kinh tế.
a.Thủ tục cấp giấy phép thành lập .
Những trọng tàI viên có nguyện vọng thành lập trung tâm trọng tàI
phảI làm hồ sơ xin phép Chủ tịch UBND tỉnh , thành phố trực thuộc
trung ương , nơI dự định đặt trụ sở của trung tâm.
Chậm nhất là 10 ngày , kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ , UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi một bộ hồ sơ xin phép thành lập
trọng tài kinh tế cho bộ tư pháp. Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ, bộ tư pháp có ý kiến trả lời bằng văn bản cho UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc TW.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được ý kiến trả lời của Bộ
Tư Pháp, chủ tịch UBND tỉnh, TP trực thuộc TW quyết định cấp hoặc từ
chối cấp giấy phép thành lập trung tâm trọng tài.
b. Đình chỉ hoạt động và thu hồi giấy phép thành lập.
Trung tâm trọng tàI bị đình chỉ và thu hồi cấp giấy phép hoạt động
trong các trường hợp sau.
- Hoạt động tráI với quy định của pháp luật về trọng tài kinh tế và
điều lệ trung tâm.
- Cố ý không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ báo cáo với cơ quan
nhà nước có chức năng quản lý công tác trọng tàI .
- Cố ý không chấp hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ do pháp luật quy
định đình chỉ hoạt động và thu hồi giấy phép thành lập trung tâm
trọng tài kinh tế được soạn gửi cho bộ tư pháp.
4. cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tàI .
8
Trung tâm trọng tàI gồm có chủ tịch, phó Chủ tịch và thư ký trung
tâm trọng tàI.
-Chủ tịch trung tâm trọng tàI có quyền hạn và nhiệm vụ chính sau:
Quản lý , điều hành hoạt động của trung tâm và đại diện cho trung
tâm trong quan hệ với bên ngoàI. Chỉ định trọng tàI viên giảI quyết tranh
chấp khi được yêu cầu, quyết định kết nạp, khai trừ trọng tàI viên theo đề
nghị của ít nhất 2/3 số trọng tàI viên của trung tâm. Nhiệm kỳ không quá
3 năm.
-Phó chủ tịch trung tâm trọng tàI giúp chủ tịch trung tâm trọng tàI
thực hiện các công việc theo sự phân công của chủ tịch trọng tài. Nhiệm
kỳ không quá 3 năm và có thể được táI cử nếu điều lệ của trung tâm trọng
tàI không có quy định khác.
-Thư ký trung tâm trọng tàI do chủ tịch trung tâm chỉ định giúp chủ
tịch và các phó chủ tịch trong việc tiếp nhận đơn, gửi giấy tờ cho các tổ
chức cá nhân có liên quan, thu lệ phí trọng tàI, lưu trữ, bảo quản…
5. Ưu nhược điểm của việc giảI quyết tranh chấp kinh doanh bằng
phương pháp trọng tài.
a.Ưu điểm:
Một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc tự do kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường là sự tự do lựa trọn hình thức và
phương thức giảI quyết tranh chấp. Song trong tất cả các hình thức giảI
quyết tranh chấp kinh doanh theo thông lệ chung thì hình thức phổ biến
và rộng rãI nhất ở các nước có nền kinh tế thị trường là trọng tài. nguyên
nhân chính là việc giảI quyết tranh chấp thông qua trọng tàI có những ưu
điểm nổi bật mà các hình thức khác không có được. Cụ thể là:
-Các bên tham gia tranh chấp được đảm bảo tối đa về quyền tự do
định doạt ở nhiều phương diện như: Lựa chọn trọng tàI viên, địa điểm,
phương thức giảI quyết tranh chấp…
-Hình thức trọng tàI thường nhanh gọn, linh hoạt, thủ tục đơn giản ,
tránh được lãng phí về mặt thời gian, hạn chế đến mức tối đa sự gián đoạn
của quá trình sản suất kinh doanh.
9
-Hình thức xét xử bằng trọng tàI là hình thức xét xử kín nên:
+ Đảm bảo được tính bí mật trong kinh doanh.
+ Bảo vệ uy tín của các bên trên thương trường.
-Đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia tranh chấp.
-Đảm bảo niềm tin về mặt pháp lí cho các chủ thể kinh doanh, tức là giảI
quyết tranh chấp dứt điểm nhằm bảo đảm tính dân chủ và công bằng cho
các bên.Do có những ưu điểm trên mà trọng tàI dần dần trở thành con
đường chủ yếu giảI quyết tranh chấp kinh doanh, đóng một vai trò quan
trọng trong quá trình xét xử. Biện pháp trọng tàI được giới thương nhân
nói riêng và giới kinh doanh nói chung trên thế giới rất ưa chuộng.b.
Nhược điểm:Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì phương pháp trọng
tàI còn tồn tại những nhược điểm. Những nhược điểm này tuy không phảI
là lớn lắm, nhưng nó cũng làm cho hoạt động trọng tàI gặp không ít khó
khăn, vướng mắc:-Trong hoạt động trọng tàI, chưa có biện pháp bảo đảm
để thực hiện phán quyết của trọng tàI. Phán quyết của trọng tàI là kết quả
của một sự thoả thuận của các bên đương sự đưa vụ kiện ra trọng tàI xét
xử. Vì vậy, thông thường nó được các bên tự nguyện chấp hành. Nhưng
trong trường hợp, nếu phán quyết không được chấp hành thì bên thắng
kiện phảI yêu cầu tào án ra quyết định công nhận áp dụng cưỡng chế. Do
vậy, công ước NewYork 1985 về việc công nhận và cưỡng chế chấp hành
phán quyết trọng tàI nước ngoàI đã ra đời.Theo công ước này một khi
phán quyết trọng tàI của một nước thành viên theo công ước được gửi đến
toà án của một nước thành viên khác thì toà án nay phải công nhận và
cưỡng chế bên đương sự liên quan trong vụ việc thực hiện phán quyết đó.
Sở dĩ như vậy là vì trọng tàI phi chính phủ không có khả năng cưỡng chế
các bên đương sự trong việc thi hành các yêu cầu và quyết định trọng tàI.
Đây là hạn chế lớn nhất của trọng tàI phi chính phủ.-Thủ tục trọng tàI rất
phiền phức. Việc thành lập một hội đồng trọng tàI để xét xử phảI qua
nhiều công đoạn. Mỗi công đoạn là một sự lựa chọn thoả thuận. Chính vì
vậy, quá trình thành lập hội đồng trọng tàI hay dẫn dến chỗ bế tắc khi
không đạt được thoả thuận tương ứng.-Khả năng kiểm tra các quyết định
10
của trọng tàI rất hạn chế. Bởi vì tổ chức trọng tàI phi chính phủ không
thiết lập một cơ chế để tạo sự kiểm tra, giám sát các quyết định của trọng
tàI như trong tố tụng tư pháp. Tố tụng trọng tàI chỉ xét xử một lần, phán
quyết là chung thẩm. Do vậy, trong một số trường hợp có sự không công
bằng giữa các bên. Tóm lại, mặc dù còn tồn tại một số nhược điểm
chưa được khắc phục nhưng hình thức trọng tàI vẫn được các nhà kinh
doanh biết đến và tin dùng. Mong rằng trong tương lai việc giảI quyết
tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh bằng phương pháp trọng tàI phi
chính phủ ngày càng được sử dụng nhiều hơn. II. Các hình thức trọng tài
trên thế giới.+Xét về tình chất phụ thuộc vào nhà nước, các tổ chức trọng
tài có hai loại:*Trọng tài chính phủ.*Trọng tài phi chính phủ.Trọng tài
chính phủ là một tổ chức trọng tài do chính phủ thành lập, trọng tài viên
là người được hưởng lương nhà nước về công việc xét xử.Trọng tài phi
chính phủ là tổ chức trọng tài hoặc do bản thân các trọn tài viên sáng lập,
hoặc do một tổ chức phi chính phủ(phòng thương mại) thành lập phù hợp
với luật trọng tài. ở đây, các trọng tài viên không đưopực hưởng lương
nhà nước về công việc xét xử.+Xét về mô hình tổ chức các Trung tâm
trọng tài thương mại và quốc tế ở ácông cụ nước trên thế giới được tổ
chức dưới hai hình thức chủ yếu.*Các trung tâm trọng tài nằm bên cạnh
phòng thương mại.Ví dụ như: cơ quan trọng tài hợp đồng kinh tế Trung
quốc do cục quản lý hành chính công thương nhà nước lập ra;Các trung
tâm trọng tài được tổ chức dưới dạng công ty theo luật công ty hoặc hiệp
hội co đăng ký theo luật của hiệp hội.Các trung tâm trọng tài được tổ
chức dưới dạng công ty theo luật công ty hoặc hiệp hội có đăng ký theo
Luật về hiệp hội. Ví dụ như: Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore;
Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông –HKIAC, Trung tâm trọng trọng
tài thương mại quốc tế úc- ACICA. Ngoài ra ở hầu hết các cả nước,
bên cạnh trung tâm trọng tài thường trực ( trọng tài quy chế) còn tồn tại
trọng tài vụ việc ( trọng tài ad-học) Trọng tài vụ việc và Trọng tài quy chế
là tổ chức Trọng tài phi Chính phủ.1. Trọng tài vụ việc: Là tổ chức được
thành lập chỉ để giải quyết một vụ kiện. Xong vụ kiện đó thì tổ chức trọng
tài phải được giải thể vì đã hết mục đích tồn tại . Do đó trọng tài vụ việc
không có cơ quan thường trực. Ví dụ: ở Thuỵ Điển tổ chức trọng tài theo
11
vụ việc ( ad-hoc) do các bên đương sự thoả thuận lập ra. Khi xảy ra tranh
chấp kinh tế, mỗi bên có quyền đề cử một trọng tài viên. Hai trọng tài
viên đó lại có quyền đề xuất một trọng tài viên thứ ba để thiết lập một
nhóm trọng tài gồm ba người chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp kinh
tế. 2. Trọng tài quy chế : Là tổ chức trọng tài hoạt động thường xuyên,
trên cơ sở một quy chế định sẵn. Nó xét sử hết vụ kiện này đến vụ kiện
khác theo quy tắc tố tụng của nó. Ví dụ: Trọng tài thương mại
Stonkolm được thành lập trên cơ sở quy chế về trọng tài ban hành năm
1917, và năm 1949 được xây dựng thành một cơ quan độc lập của phòng
thương mại Stockolm được tổ chức lại thành một cơ quan trọng tài đầy đủ
điều kiện có thể giải quyết cả tranh chấp kinh tế mạng tính chất quốc tế.
Để đạt được một thoả thuận trọng tài, người ta có thể áp dụng một
số loại thủ tục tố tụng trọng tài khác nhau. Trọng tài ad-hoc và trọng tài
quy chế là hai trong số các mô hình tố tụng đó. Trong giai đoạn chuẩn
bị một thoả thuận trọng tài, trước hết và cơ bản nhất cần lựa chọn xem thủ
tục trọng tài sẽ được áp dụng là trọng tài ad-hoc hay trọng tài quy chế. -
Trong nhiều hình thức trọng tài an-hoc có một số phương thức khác nhau
và nếu chọn hình thức trọng tài an-hoc thì các bên phải tiếp tục lựa chọn
một trong số các hình thức đó. Khi lựa chọn hình thức trọng tài ad-hoc,
các bên tham gia trọng tài có thể hoạch định những nguyên tắc riêng của
mình vè trình tự thủ tục tố tụng cho phù hợp với tranh chấp của họ hoặc
thay vào đó, họ có thể chấp nhận một hệ thống quy định mẫu về trọng tài .
Đó là bản “ Quy định về trọng tài” của Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật
thương mại quốc tế ( UNCITRAL). Tuy nhiên, nếu vì một lý do gì đó
mà người ta chọn hình thức trọng tài ad-hoc , người ta sẽ tiết kiệm thời
gian bằng cách đưa một số quy định sẵn có cho hình thức trọng tài này
vào trong thoả thuận về hình thức trọng tài ad-hoc mà được áp dụng riêng
cho hợp đồng đó. Mặc dù điều này đương nhiên sẽ làm giảm hiệu quả đối
với tranh chấp trên thực tê. Khi chọn hình thức trọng tài ad-hoc ,
trong tiến trình tố tụng, các bên tham gia tố tụng chỉ có thể trông cậy vào
quyết định của Toà án trọng tài cũng như các lỗ lực của chính họ. Bởi
vì, quy định trọng tài UNCITRAL đã bao hàm toàn bộ quá trình tố tụng
trọng tài từ lúc bắt đầu đến kết thúc. Văn phòng UNCITRAL không có
12
chức năng trợ giúp, hướng dẫn tiến trình này. - Nếu các bên chọn
hình thức trọng tài quy chế ( hay còn gọi là trọng tài chính thức), họ có
thể lựa chọn phương thức trọng tài chính