Đề tài Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam

Xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu sắc, toàn diện trên phạm vi toàn thế giới. Nó là quy luật khách quan mà Việt Nam cần sớm nắm bắt và vận dụng. Việc tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giơi sẽ mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những chính sách phù hợp. Một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế là ngoại thương. Nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của chính sách kinh tế đối ngoại phải kể đến vai trò quan trọng của chế độ tỷ giá hối đoái của mỗi quốc gia. Chúng ta chưa quên sự can thiệp bất thành của 15 ngân hàng Trung ương trước sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Châu Âu những năm 90; sự phá giá bất ngờ của đồng bảng Anh tháng 9/1992 trước sự tấn công của những kẻ đầu cơ, mặc dù đã có sự can thiệp tích cực cuả Ngân hàng Trung ương Đức và Anh với khối lượng 15 tỷ bảng Anh; hay hai s ự kiện làm rung chuyển thế giới chỉ trong một thời gian ngắn. Đó là: Sự khủng hoảng của đồng Pê-sô (Mêhicô) tháng 12/1994 và sự mất giá kỷ lục trong năm 1995, rồi lại sự lên giá đột biến của USD năm 1996. Là một nước đang đi những bước đầu tiên tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, hơn bao giờ hết việc nghiên cứu tỷ giá hối đoái đang trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho chúng ta. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, trong bài viết này, em xin đề cập tới vấn đề: "Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam." Cấu trúc bài viết gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về tỷ giá hối đoái. Chương II: Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong những năm gần đây. Chương III: Một số giải pháp góp phần bổ xung, hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.

pdf53 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2755 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam lời nói đầu Xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu sắc, toàn diện trên phạm vi toàn thế giới. Nó là quy luật khách quan mà Việt Nam cần sớm nắm bắt và vận dụng. Việc tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giơi sẽ mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những chính sách phù hợp. Một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế là ngoại thương. Nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của chính sách kinh tế đối ngoại phải kể đến vai trò quan trọng của chế độ tỷ giá hối đoái của mỗi quốc gia. Chúng ta chưa quên sự can thiệp bất thành của 15 ngân hàng Trung ương trước sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Châu Âu những năm 90; sự phá giá bất ngờ của đồng bảng Anh tháng 9/1992 trước sự tấn công của những kẻ đầu cơ, mặc dù đã có sự can thiệp tích cực cuả Ngân hàng Trung ương Đức và Anh với khối lượng 15 tỷ bảng Anh; hay hai sự kiện làm rung chuyển thế giới chỉ trong một thời gian ngắn. Đó là: Sự khủng hoảng của đồng Pê-sô (Mêhicô) tháng 12/1994 và sự mất giá kỷ lục trong năm 1995, rồi lại sự lên giá đột biến của USD năm 1996. Là một nước đang đi những bước đầu tiên tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, hơn bao giờ hết việc nghiên cứu tỷ giá hối đoái đang trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho chúng ta. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, trong bài viết này, em xin đề cập tới vấn đề: "Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam." Cấu trúc bài viết gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về tỷ giá hối đoái. Chương II: Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong những năm gần đây. Chương III: Một số giải pháp góp phần bổ xung, hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. chương I: Tổng quan về tỷ giá hối đoái. I. Khái niệm tỷ giá: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, vai trò của thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà phân công lao động quốc tế đã đạt đến giai đoạn cao và mang tính toàn cầu, thương mại quốc tế trở thành vấn đề mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia và là mối quan tâm hàng đầu của mọi tổ chức kinh tế trên thế giới. Các quan hệ thương mại , tín dụng , đầu tư, khoa học kỹ thuật ... đều có giá cả , biểu hiện bằng những đồng tiền khác nhau của những nước khác nhau. Do hệ thống tiền tệ và chính sách giá cả mỗi nước một khác, nên việc thanh toán giữa các nước đòi hỏi phải so sánh giá trị , sức mua của các đồng tiền khác nhau, và thanh toán với nhau không theo giá cả của từng nước mà theo giá cả quốc tế( còn gọi là giá ngoại thương). Từ đó xuất hiện khái niệm tỷ giá hối đoái. Như vậy : Tỷ giá hối đoái theo cách hiểu thông thường là sự so sánh giá trị giữa đơn vị tiền tệ khác nhau của các nước có quan hệ với nhau.Hay nói cách khác : Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này sang thành những đơn vị tiền tệ nước khác. Ví dụ, trên thị trường hối đoái Việt Nam ngày30/06/2000 là 14087 VND/USD thì đó là tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ. Trên phương diện kinh tế, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế vốn có cuả nền sản xuất hàng hoá, nó cho thấy sức mua đối ngoại thực tế của một đồng tiền trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, không phải đồng tiền quốc gia nào cũng được nhận để thanh toán bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải được ngân hàng nước đó thu mua. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh được sử dụng rộng rãi, phổ biến như: USD(Mỹ), JPY(Nhật), Bảng (Anh)... II.Lịch sử hình thành và phát triển của tỷ giá hối đoái. 1. Thời kỳ lưu thông tiền vàng và tiền đúc : Từ trước công nguyên, sau cuộc phân công lao động xã hội lần thứ 2, vàng và bạc đúc thành thỏi đã trở thành đồng tiền ngự trị các loại tiền khác như : ốc , vỏ sò , da thú... và dần chiếm vị trí độc tôn trên thị trường hàng hoá tiền tệ.Tuy nhiên do việc dùng vàng thỏi tính theo trọng lượng đã gây rất nhiều khó khăn cho trao đổi , nên tiền đúc đã ra đời . Bắt đầu từ cuộc phân công lao động lần thứ 3 , trong lưu thông đã xuất hiện loại tiền đúc của các lái buôn giàu có ( khắc tên người phát hành vàng và trọng lượng vàng ) về sau do thương nghiệp mở rộng thì tiền đúc không còn do các thương nhân, nhà thờ đúc mà do nhà nước . Mỗi nước tuỳ theo phong tục của mình đã đưa ra những đồng tiền riêng mang dấu ấn quốc gia và khác với đòng tiền các quốc gia khác về trọng lượng và đơn vị đồng tiền , với đơn vị tiền vàng khác nhau, dẫn đến xu hướng người dân nước nào sử dụng đồng tiền nước đó. Trong quan hệ ngoại giao, việc xác định tỷ giá trao đổi hoàn toàn giản đơn, chỉ việc so sánh trọng lượng kim loại thực tế của hai đồng tiền với nhau. 2. Chế độ bản vị vàng và vàng - hối đoái : Trong chế độ này, việc xác định tỷ giá giữa các đồng tiền vẫn là việc so sánh trọng lượng vàng mà mỗi đơn vị tiền giấy làm đại biểu , hay có thể nói là việc so sánh hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ của mỗi nước. Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này giao động xung quanh điểm vàng. Điểm vàng là ngang giá vàng của các đồng tiền cộng ( hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng( phí vận tải , phí bảo hiểm, phí đóng góp và thủ tục phí) giữa các nước hữu quan. Khi tỷ giá vượt điểm vàng thì nước mắc nợ sẽ không dùng tiền quốc gia mình để mua ngoại tệ dùng vào việc trả nợ, mà họ sẽ chuyển vàng ra nước ngoài để trả nợ. Với đặc trưng này chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định , sức mua của đồng tiền rất ít khi bị biến động. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , chế độ này đã tỏ ra có nhiều ưu điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông một cách tự phát không cần đến sự can thiệp của nhà nước theo cơ chế: sự tăng giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng trong nền kinh tế. Do đó , việc lựa chọn phương hướng xử lý tỷ giá rất ít khi phải đặt ra. Tuy có nhiều ưu điểm làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng trong giai đoạn đầu, nhưng chế độ bản vị vàng không tồn tại được lâu. Nguyên nhân chính là do trong nền kinh tế thế giới có sự phát triển không đồng đều giữa các nước, dẫn đến một hiện tượng tất yếu là những nước giàu tích trữ được nhiều vàng, còn những nước nghèo thì tiền dấu hiệu tràn lan và họ cũng không có khả năng đúc vàng vì lượng vàng dự trữ đã cạn kiệt. Để đối phó với tình hình này, chính phủ ở các nước nghèo đã ngăn cấm việc xuất khẩu vàng tự do.Như vậy, trong quan hệ giữa các nước chế độ bảo vệ mậu dịch tự do đã thay thế cho chế độ mậu dịch tự do,vàng không còn được lưu thông giữa các nước- chế độ bản vị vàng bắt đầu tan giã vào đầu chiến tranh thế giới thứ nhất. Đến năm 1924, nước Anh chuyển chế độ bản vị vàng sang chế độ giấy bạc ngân hàng được chuyển đổi ra vàng không đầy đủ: Không lưu hành tiền đúc bằng vàng, tiền giấy chỉ được đổi lấy vàng thoi( chế độ bản vị vàng thoi- mỗi thoi nặng 12,444kg vàng ). Khi đó bảng Anh (GBP) là loại ngoại tệ mạnh chủ chốt trong thanh toán quốc tế, dự trữ quốc tế. Tiền giấy của các nước tuy không đổi được lấy vàng nhưng có thể đổi lấy bảng Anh. Chế độ tiền tệ thông qua ngoại tệ mạnh đổi lấy vàng gọi là chế độ bản vị vàng hối đoái ( ở đây là chế độ bản vị bảng Anh). Trong chế độ này bảng Anh được tự do chuyển đổi ra vàng: 1700 GBP = 400 ounce = 12,444 kg vàng. Khi bảng Anh sụp đổ thì cuộc săn vàng lại di chuyển ồ ạt sang Mỹ. USD là loại ngoại tệ mạnh thứ hai trên thế giới lúc bấy giờ. Chính phủ Mỹ vì không muốn dự trữ vàng cạn kiệt nên đầu năm 1934 phải tuyên bố đình chỉ đổi USD ra vàng ở trong nước. Như vậy, từ năm 1934, tạm thời không còn đồng tiền nào có thể đổi ra vàng được nữa. Một lần nữa tiền vàng lại rút khỏi lưu thông và thay thế bằng tiền dấu hiệu. 3. Chế độ tỷ giá cố định - chế độ bản vị USD: Đến năm 1944, tại hội nghị Bretton Woods, quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ra đời, với điều lệ đầu tiên là xây dựng tỷ giá cố định cho mỗi đồng tiền. Theo chế độ này, các nước phải quy định hàm lượng vàng riêng cho đồng tiền của mình và so sánh với hàm lượng vàng của USD (1 USD = 0,88867 gr vàng nguyên chất ) để có một tỷ giá chính thức. Biên độ giao động của tỷ giá không được vượt quá 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại IMF. Nếu vượt quá biên độ này thì ngân hàng TW phải can thiệp bằng cách mua vào hoặc bán ra một lượng USD nhất định nhằm bảo vệ tỷ giá chính thức với USD. Thông qua tiền tệ sẽ được đổi ra vàng theo giá: 35 USD = 1 ounce vàng. Như vậy về nguyên tắc vàng vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua của các đồng tiền với nhau thông qua USD. VD: Nội dung vàng của GBP là 2,488281 gr vàng nguyên chất. Như vậy đồng giá vàng của GBP sẽ là : 1 GBP = 2,488281/0,888671=2,8 USD. Như vậy tỷ giá chính thức của 1GBP sẽ là 2,8 USD nếu như không có những yếu tố trên thị trường tác động. Sở dĩ chế độ này có thể tồn tại trong suốt thời gian dài là do lúc đó Mỹ có lượng dự trữ vàng lớn nhất thế giới 24,7 tỷ USD khoảng 20000 tấn vàng, chiếm 70% dự trữ vàng của thế giới tư bản- USD trở thành phương tiện thanh toán và dự trữ quốc tế. Vào những năm 70, tình trạng khủng hoảng USD diễn ra thường xuyên, Mỹ đã phát hành trên 166 tỷ USD tiền giấy, điều này có nghĩa là ngân hàng TW của các nước luôn phải mua USD để bảo vệ tỷ giá.Lượng USD này lại được đổi ở cục dự trữ liên bang Mỹ làm cho kho vàng của Mỹ giảm đi nhanh chóng . Để đối phó với tình ttạng này, ngày 15-08-1971 Mỹ đã phải tuyên bố ngừng chuyển đổi USD ra vàng theo tỷ giá chính thức. Sau đó ngày 18-12-1971 thì tuyên bố phá giá USD ở mức 7,89%. Tới ngày 12-02-1973Mỹ lại phá giáUSD tiếp 10%. Qua 2 lần phá giá liên tiếp, chế độ bản vị USD sụp đổ hoàn toàn. Sau khi chế độ USD sụp đổ thì toàn bộ cơ chế thanh toán quốc tế tư bản chủ nghĩa bị hỗn loạn, USD bị dình chỉ đổi ra vàng. Do đó trong thanh toán quốc tế giữa các nước, người ta đòi hỏi ngày càng nhiều điều kiện đảm bảo bằng vàng. Mặc dù Mỹ đã tìm mọi cách để loại vàng ra khỏi thanh toán quốc tế,nhưng một số nước (như Pháp) lại có xu hướng dùng vàng làm cơ sở cho thanh toán quốc tế Cuộc đấu tranh giữa các nước thông qua vấn đề vai trò của vàng ngày càng mạnh. Tuy nhiên, không có dấu hiệu gì chứng tỏ hệ thống tiền tệ có thể phục hồi được chế độ bản vị vàng và vàng -hối đoái. Các nước tư bản đã có kinh nghiệm không thể sử dụng đồng ngoại tệ mạnh đóng vai trò tiền tệ quốc tế được, bởi vì nhất định nước có đồng ngoại tệ mạnh đó sẽ lạm dụng, làm thiệt hại đến lợi ích của các nước khác 4. Chế độ bản vị SDR (Special Drawing Right). Từ năm 1970, các nước tư bản hội viên của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã thành lập một cơ chế tiền tệ – tín dụng mới để điều tiết cán cân thanh toán quốc tế mà không cần đến dự trữ vàng hoặc ngoại hối. SDR không phải là tiền, nên không có nội dung vật chất, hình dáng, mầu sắc cụ thể, mà nó chỉ là một đơn vị thanh toán ghi sổ (chuyển khoản) trên danh nghĩa có nội dung vàng là 0.888671 gr vàng nguyên chất (bằng 1 USD trước đây). IMF mở sổ riêng cho từng nước để theo dõi việc phân phối SDR. Chỉ có những nước bị thiếu hụt trong cán cân thanh toán giữa các nước hội viên của IMF mới được vay để trả nợ. Có thể nói đây là tiền ghi sổ của IMF. Các nước tư bản, thông qua quỹ tiền tệ quốc tế, trong nhiều năm đã cố gắng thực hiện cuộc cải cách tiền tệ quốc tế trên tinh thần học thuyết phi tiền tệ hoá vàng, tức loại bỏ chức năng làm tiền tệ quốc tế của vàng, xây dựng cho được một đồng tiền làm bản vị cho các quốc gia trên thế giới, thay thế cho USD làm chức năng thước đo giá trị, phương tiện chi trả và dự trữ quốc tế, xoá bỏ chế độ công bố nội dung vàng của các đòng tiền quốc gia. SDR là loại vàng giấy thay cho kim loại vàng do IMF phát hành . Các nước phương tây muốn nâng vai trò của vàng lên nhằm mục đích loại bỏ USD ra khỏi vị trí một đồng tiền chủ đạo thao túng các đồng tiền khác trong hệ thống tiền tệ. Như vậy, trong cuộc tranh chấp trên, nhiễm nhiên SDR được cả Mỹ và Tây Âu đưa lên làm phương tiện thanh toán và dự trữ quốc gia, làm thước đo già trị của các đồng tiền khác. Chế độ tiền tệ mới ra đời – chế độ bản vị SDR. Nội dung SDR ngày nay đã được thay đổi, không còn nội dung vàng nữa, mà được tính bằng 16 đồng tiền mạnh nhất thế giới. Hiện nay là 5 đồng tiền mạnh của 5 quốc gia có tiềm lực về kinh tế tài chính. Kể từ khi thực hiên chế độ này, hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đồng tiền đã mất dần đi ý nghĩa kinh tế của nó. Việc xác định tỷ giá không dựa vào ngang giá vàng như trước đây mà hoàn toàn thả nổi theo quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường. Qua đó việc xác định tỷ giá được hợp lí hơn, chính xác hơn. Thông qua việc xác định tỷ giá chéo người ta cũng có được tỉ giá hối đoái của các đồng tiền các nước với nhau. III. Chức năng của tỷ giá hối đoái. Mối quan hệ giữa người sản xuất hàng hoá trong nước với thị trường thế giới đựoc thực hiện thông qua tỷ giá hối đoái – một phạm trù kinh tế vốn có của nền sản xuất hàng hoá. Do đó tỷ giá hối đoái có những chức năng sau: III.1. Chức năng so sánh sức mua Phạm trù tỷ giá hối đoái thể hiện trong mối tương quan sức mua của hai đồng tiền so sánh. Như ta đã biết: khi tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị, nó đã biến giá trị của hàng hoá, dịch vụ thành hình thức giá cả. Điều đó chứng tỏ giá cả hàng hoá chính là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Chính vì vậy mà mọi sức tăng giảm của giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường cho thấy sức mua của tiền tệ giảm đi hay tăng lên. Nếu như trong đồng ngoại tệ có sức mua cố định trong khi sức mua của đồng nội tệ tăng hay giảm thì tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với đồng khác cũng tăng hoặc giảm. Giá cả của hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nội địa và thị trường thế giới có thể so sánh với nhau thông qua tỷ giá hối đoái. Nhờ đó mà các quốc gia có thể tính toán được mức chênh lệch về năng suất lao động ở trong nước với thế giới như thế nào, tính toán được hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại. Qua chức năng so sánh sức mua của các đồng tiền, tỷ giá hối đoái trở thành một công cụ quan trọng trong việc hoạch định các chiến lược phát trển, các hoạt động ngoại thương, các chính sách kinh tế đối ngoại, các dịch vụ đối ngoại và các hoạt động kinh tế khác ở trong và ngoài nước. III.2. Chức năng điều chỉnh xuất nhập khẩu và thu chi quốc tế . Đây là một chức năng quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế – tài chính, đựơc sử dụng như một công cụ để so sánh về giá trị các chi phí sản xuất của một doanh nghiệp với các giá cả trên thị trường thế giới, nó phản ánh kết quả các hoạt động kinh tế đối ngoại của các nước trọng một thời kì nhất định. Vì thế, thông qua việc biểu hiện tương quan giá trị các đồng tiền của các nước với nhau mà tỷ giá hối đoái có một vai trò quan trọng đối với quá trình trao đổi ngang giá và cùng với nhiều nhân tố khác, tỷ giá hối đoái tác động tương quan giữa giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của hàng hoá các nước. Trong trường hợp đồng bản tệ xuống giá- Tỷ giá của đồng bản tệ tăng so với đồng ngoại tệ. Giả dụ đầu năm 1USD = 11.000 VNĐ cuối năm 1USD = 13.000 VNĐ, tức là một đơn vị ngoại tệ đổi được nhiều đơn vị bản tệ hơn trước. Để thu được một lượng ngoại tệ như đầu năm, vào cuối năm nhà xuất khẩu đầu tư nước ngoài khi bán hàng vào Việt nam buộc phải tăng giá (Tính theo VNĐ). Bởi nếu nhà sản xuất xuất khẩu không tăng giá thì họ sẽ bị thiệt thậm chí lỗ. Trong khi đó, việc đồng bản tệ xuống giá lại có xu hướng kích thích tăng cường khối lượng đẩu tư xuất khẩu. Bởi vì : cũng là một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều bản tệ hơn. Do vậy, nhà xuất khẩu khi thấy tỉ giá của đồng bản tệ tăng so với đồng ngoại tệ có thể bán hàng ra nước ngoài với gía rẻ hơn vẫn thu được một khoảng lợi nhuận như trước. (Tính theo đồng bản tệ) Tình hình sẽ hoàn toàn ngược lại khi đồng bản tệ lên giá-Tỷ giá của đồng bản tệ giảm so với đồng ngoại tệ. Như vậy, tỷ giá hối đoái có thể điều các hoạt động xuất nhập khẩu về tỷ trọng, khối lượng và cơ cấu mặt hàng…… Ngoài khả năng điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái còn tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Trong quan hệ vay nợ quốc tế, khi đồng bản tệ của nước đi vay mất giá, các khoản nợ thực tế của của đồng bản tệ giảm xuống, nhưng gáng nặng nợ nước ngoài tăng lên. Chính vì vậy chúng ta vay nợ nước ngoài với tỷ giá 900đ/1USD mà hiên nay là 15.000đ/1USD . Ngoài ra tỷ giá hối đoái còn ảnh hưởng đến dòng vốn tiền tệ từ những hoạt động mang tính chất phi mậu dich như : Du lịch, kiều hối … Tỷ giá hối đoái còn có chức năng điều tiết mặt bằng giá cả trong nước. Khi giá trị của đồng bản tệ giảm sẽ hạn chế nhập khẩu, song với nhưng mặt hàng thiết yếu phục vụ cuộc sống và yếu cầu phát triển kinh tế thì khi giá cao vẫn phải nhập về, vì thế giá cả của mặt hàng này tất nhiên sẽ tăng do đó ảnh hưởng tới mặt bằng giá cả nói chung. III.3. Chức năng phân phối. Tỷ giá hối đoái thể hiện chức năng phân phối của mình thông qua sự thay đổi thu nhập của các ngành kinh tế đối ngoại nói riêng và các ngành kinh tế quốc dân nói chung. Nhờ có chức năng này, Nhà nước đã sử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ quan trọng điều tiết phân phối lại thu nhập giữa các nước có quan hệ với nhau. Một số nước có quan hệ với nhau. Một số nước đã xử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại, giành giật thị trường. Ví dụ: trong những năm 1994-1996, Mỹ đã kéo dài thời gian không can thiệp vào việc giảm giá USD so voi yên Nhật (JPY). Điều này đã gây khó khăn cho Nhật Bản xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ, đặc biệt là mặt hàng xe hơi. Đây là đòn kinh tế nặng nề của Mỹ dành cho Nhật Bản. Nó làm giảm thu nhập lớn tới ngành sản xuất xe hơi ở Nhật Bản. IV. Chế độ tỷ giá cố định và thả nổi, nhưng ưu điểm và hạn chế. Đối với mỗi quốc gia và ngay trên phạm vi quốc tế thì việc lựa chọn, áp dụng chế độ tuỷ giá nào là hết sực quan trọng. Bởi vì các chế độ tỷ giá khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến cân bằng kinh tế đối ngoại (cán cân thanh toán quốc tế), xuất nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp …Cho đến nay, chúng ta đã biết đến 3 chế độ tỷ giá cơ bản, đó là : Chế độ bản vị vàng, chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Trong đó, chế độ tỷ giá thả nổi lại được chia thành : Thả nổi tự do và thả nổi co quản lý. Việc áp dụng chế độ tỷ giá nào của mỗi quốc gia phụ thuộc vào :  Trình độ phát triển kinh tế.  Tính chất tham gia hợp tác quốc tế.  Mức độ mở cửa kinh tế.  Tốc độ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Trong thực tế, dù áp dụng chế độ tỷ giá nào, đều có những điểm tích cực và hạn chế của chúng. Điều nay đẫ được Samuelson mô tả như sau “Chế độ tỷ giá cố định cung cấp cho ta một cái neo, nhưng con tàu bỏ neo nhiều khi lại nguy hiểm hơn con tàu đang đi và nếu để các đồng tiền theo giá cả thị trường tự do thì chúng ta lang thang, quanh quẩn như vị thuỷ thủ say khướt”. IV.1. Chế độ tỷ giá cố định. Một điều không thể không thừa nhận rằng trong lịch sử tài chính quốc tế, chế độ tỷ giá cố định đã từng đóng một vai trò quan trọng. Có thể nói, sau chiến tranh thế giới thứ II, Châu Âu bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ và đình đốn. Trong thời gian chưa đầy một thập kỷ, các nước Châu Âu đã hồi phục được nền kinh tế của mình và đang trên đà phát triển với tốc độ kinh tế ngày càng cao. Một trong những nhân tố quan trọng giúp các nước này và thế giới tư bản nói chung phục hồi và thịnh vượng là nhờ vào việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định trên phạm vi quốc tế trong một thời gian dài, mà những nguyên tắc của nó được thể hiên trong hiệp ước Bretto
Tài liệu liên quan