Thực tế có nhiều nền kinh tế chuyển biến chậm, có nền kinh tế chuyển biến xấu.
Dĩ nhiên không ai chờ đợi kết quả xấu xảy ra với quốc gia mình, ngay kể cả những
người đề xướng thị trường phải tự do điều tiết hoàn toàn. Do vậy, người ta phải nghiên
cứu những tác động nhất định vào quá trình phát triển nền kinh tế. Nhà n ước là người
đại diện cho ý chí của xã hội đã không ngừng can thiệp vào quá trình này.
Hiển nhiên là những nền kinh tế càng gần với tính chất tự nhiên thì càng ít đổi
mới và là nền kinh tế lạc hậu. Ta có thể thấy được sự trì trệ đó của hàng ngàn năm
trước, còn các nền kinh tế đổi mới và đi lên con đường phát triển, luôn đi đôi với sự
phát triển về trí tuệ và khoa học và sự tác động có ý thức của con người. Để có sự tăng
trưởng nhanh hơn phải luôn có ý thức đổi mới cơ chế kinh tế. Điều đó diễn ra bằng cả
sự biến đổi thực tế do cơ chế thị trường tác động và bằng cả sự nhận thức khoa học và
hành động và ý thức của con người.
Sự hiểu biết nhiều hơn về quy luật phát triển kinh tế xã hội đã giúp ngăn ngừa
những trở ngaị và phát huy những nhân tố thuận lợi cho quá trình phát triển. Sự bắt
chước có lựa chọn những kinh nghiệm, những mô hình đã được ứng dụng có hiệu quả,
sự nghiên cứu và tự đổi mới trong thể chế cho phù hợp với thực tế nhằm mục đích tăng
trưởng kinh tế, giúp đất nước thoát khỏi nghèo đói và nhằm mục tiêu xã hội.
Quá trình phát triển kinh tế và đặc biệt là nguồn vốn đầu tư là nguồn lực quan
trọng nhất cho thực hiện mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu em đã chọn đề tài: Kế hoạch huy
động vốn đầu tư và giải pháp huy động.
Bài viết ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Phần I : Kế hoạch huy động vốn đầu tư và vai trò của nó
trong hệ thống kế hoạch hoá phát Triển.
Phần II: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch huy động vốn đầu tư thời kỳ 1996-2000.
Phần III: kế hoạch huy động vốn thời kỳ 2001-2005 và giải pháp
48 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch huy động vốn đầu tư và giải pháp huy động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kế hoạch huy động vốn đầu tư và
giải pháp huy động
Mở đầu
Thực tế có nhiều nền kinh tế chuyển biến chậm, có nền kinh tế chuyển biến xấu.
Dĩ nhiên không ai chờ đợi kết quả xấu xảy ra với quốc gia mình, ngay kể cả những
người đề xướng thị trường phải tự do điều tiết hoàn toàn. Do vậy, người ta phải nghiên
cứu những tác động nhất định vào quá trình phát triển nền kinh tế. Nhà nước là người
đại diện cho ý chí của xã hội đã không ngừng can thiệp vào quá trình này.
Hiển nhiên là những nền kinh tế càng gần với tính chất tự nhiên thì càng ít đổi
mới và là nền kinh tế lạc hậu. Ta có thể thấy được sự trì trệ đó của hàng ngàn năm
trước, còn các nền kinh tế đổi mới và đi lên con đường phát triển, luôn đi đôi với sự
phát triển về trí tuệ và khoa học và sự tác động có ý thức của con người. Để có sự tăng
trưởng nhanh hơn phải luôn có ý thức đổi mới cơ chế kinh tế. Điều đó diễn ra bằng cả
sự biến đổi thực tế do cơ chế thị trường tác động và bằng cả sự nhận thức khoa học và
hành động và ý thức của con người.
Sự hiểu biết nhiều hơn về quy luật phát triển kinh tế xã hội đã giúp ngăn ngừa
những trở ngaị và phát huy những nhân tố thuận lợi cho quá trình phát triển. Sự bắt
chước có lựa chọn những kinh nghiệm, những mô hình đã được ứng dụng có hiệu quả,
sự nghiên cứu và tự đổi mới trong thể chế cho phù hợp với thực tế nhằm mục đích tăng
trưởng kinh tế, giúp đất nước thoát khỏi nghèo đói và nhằm mục tiêu xã hội.
Quá trình phát triển kinh tế và đặc biệt là nguồn vốn đầu tư là nguồn lực quan
trọng nhất cho thực hiện mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu em đã chọn đề tài: Kế hoạch huy
động vốn đầu tư và giải pháp huy động.
Bài viết ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Phần I : Kế hoạch huy động vốn đầu tư và vai trò của nó
trong hệ thống kế hoạch hoá phát Triển.
Phần II: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch huy động vốn đầu tư thời kỳ 1996-
2000.
Phần III: kế hoạch huy động vốn thời kỳ 2001-2005 và giải pháp
Phần I
Kế hoạch huy động vốn đầu tư và vai trò của nó
trong hệ thống kế hoạch hoá phát Triển.
I. Khái niệm và nhiệm vụ kế hoạch huy động vốn đầu tư.
1, Khái niệm kế hoạch vốn đầu tư.
Là bộ phận kế hoạch có liên quan trực tiếp để thực hiện kế hoạch tái sản xuất
giản đơn và mở rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế xã hội.
2, Khái niệm vốn đầu tư.
Là hoạt động bỏ vốn và làm tăng quy mô của tài sản quốc gia(TSQG). Đó là một
bộ phận trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển nó xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư xã
hội cần có trong kỳ kế hoạch và cân đối nhu cầu đó với các nguồn bảo đảm đồng thời
đưa ra các chính sách, các giải pháp và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Đảm bảo
thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
3, Nhiệm vụ của kế hoạch huy động vốn đầu tư.
3.1. Xác định yêu cầu về nhu cầu khối lượng vốn đầu tư XH cần có kỳ kế hoạch.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế g=7,5% vào những năm tới thì nhu cầu
về vốn đầu tư( tính theo mô hình Harrod-Domad) trong những năm tới là 200 ngàn tỷ
đồng, tương đương với 30 tỷ $, theo cách tính khác để tăng một lần để thu nhập quốc
dân phải tăng 2,5 lần, vốn đầu tư thì phải có trên 50 tỷ $, nhu cầu về vốn lớn.
3.2. Xác định cơ cấu nhu cầu vốn đầu tư theo ngành theo vùng cơ cấu. Xu hướng
chuyển dịch cơ cấu trong thời gian tới.
- Cơ cấu tăng trưởng nhanh trên cơ sở hướng ngoại trước đây của một số nước
Đông á và Đông Nam á còn hạn chế.
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập như hiện nay, mô hình
hướng về xuất khẩu không có ý nghĩa, bởi lẽ nền kinh tế hội nhập không phân biệt thị
trường trong nước và nước ngoài. Nền kinh tế mở cửa mỗi nước cũng phải cạnh tranh
như sản xuất để xuất khẩu, luôn luôn phải cạnh tranh hàng hóa dịch vụ ngay trên mỗi
lãnh thổ quốc gia.
- Trong thực tiễn đổi mới vừa qua ở nước ta và kinh nghiệm quốc tế cho thấy,
một quốc gia không chỉ theo đuổi một mục tiêu được thể hiện ở một loại cơ cấu kinh tế
nào đó, bởi lẽ từng loại hình cơ cấu chỉ đáp ứng từng mặt trong từng giai đoạn, không
đáp ứng được mục tiêu phát triển tổng thể toàn diện.
- Từ những vấn đề trên mỗi nước phải lựa chọn cho mình một cơ cấu phù hợp.
Để có cơ cấu phù hợp cho quá trình CNH-HĐH đất nước thì đòi hỏi phải phân tích đặc
điểm tự nhiên kinh tế xã hội trong nước, bối cảnh quốc tế, tìm ra một cơ cấu phù hợp
với đất nước mình. Trong bước chuyển đổi cơ cấu từ nay đến năm 2020 cần thiết phải
có những chính sách thỏa đáng để tạo ra được các ngành mũi nhọn, các vùng động lực
cho phát triển. Để đạt được điều trên thì cần thiết phải có vốn đầu tư. Vốn giúp cho quá
trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu một cách nhanh, có hiệu quả và bền vững. Nhưng
bên cạnh đó cũng phải có một kế hoạch để thu hút vốn đầu tư thực hiện công việc này.
Cơ cấu ngành đến 2010 và 2020 như sau:
Năm 2000 2010 2020
Cơ cấu GDP% 100 100 100
Nông nghiệp 24,0 15,5 7,0
Công nghiệp và xây dựng 35,2 42,2 45,0
Dịch vụ 40,8 42,0 49,0
Vậy để đảm bảo cho cơ cấu ngành trên được thực hiện đúng thì cần phải có
chính sách vốn hợp lý, đảm bảo vốn đáp ứng hợp lý.
3.3. Xác định nguồn đảm bảo vốn đầu tư có thể trong kỳ kế hoạch.
a. Đối với nguồn vốn trong nước.
- Trong những năm tới vốn của khu vực kinh tế Nhà nước không lớn, trong khi
nguồn vốn tiềm năng trong các tầng lớp nhân dân chưa thể xác định được, nhưng nếu
có chính sách đúng thì sẽ huy động được và sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong
tổng vốn đầu tư.
- Đồng thời với huy động các tiềm năng vốn trong nhân dân, cần nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của khu vực Nhà nước. Vốn Ngân sách dù không trong thời gian tới,
nhưng riêng việc nâng cao sử dụng vốn hiện có của các đơn vị kinh tế thì ý nghĩa của
nguồn vốn này trở nên đáng kể và đóng vai trò quyết định trong tổng vốn đầu tư, những
khả năng thực tế có thể khai thác.
+ Nâng cao công suất sử dụng máy móc thiết bị có từ mức 30% hiện nay lên 45-
50%(tăng 1,5 lần).
+ Động viên các xí nghiệp quốc doanh tự đầu tư để mở rộng sản xuất kinh
doanh.
+ Kinh doanh bất động sản bao gồm bán nhà ở, cho thuê đất đai...
+ Bán các cơ sở kinh tế quốc doanh xét ra không nên duy trì hoặc bị thua lỗ
không thể cứu vãn được.
- Để có lượng hóa được nguồn vốn trong nước, cần điều tra thống kê, sau đó xây
dựng các chính sách và phương thức huy động và sử dụng vốn đó.
+ Tiết kiệm của nhân dân : 2000tỷ đồng
+ Vốn đầu tư của nhân dân : 2000tỷ đồng
+ Vốn của 6 vạn lao động ở Đức về : 3500tỷ đồng
+ Vốn của 1,6 vạn lao động ở Irak về : 220tỷ đồng
+ Vốn của Việt Kiều đã đầu tư về nước: 70 tỷ đồng
7.790tỷ đồng
Theo cách tính này, chưa kể vốn của hàng vạn lao động ở các nước khác về và
các tài sản cất giữ trong dân thì nguồn vốn trong dân thì nguồn vốn tư nhânđã lên tới
8000 tỷ đồng. Nếu động viên được ⅓ số vốn trong dân vào mục đích đầu tư thì đã có
thêm một lượng vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước. Hiệu quả một đồng vốn của khu
vực tư nhân sinh lợi gấp 2-3 lần khu vực kinh tế Nhà nước nên ý nghĩa vốn tư nhân đối
với tăng trưởng kinh tế càng lớn.
b. Đối với nước ngoài.
-Vốn ODA: Vốn ODA trong những năm tới phụ thuộc lớn vào quan hệ giữa
nước ta với các nước, trước hết là với Mỹ.
- Vốn viện trợ nhân đạo: Khoảng 500-600 triệu đô la.
- Vốn trực tiếp.
II.Nội dung kế hoạch vốn đầu tư.
1. Xây dựng nội dung nhu cầu khối lượng vốn đầu tư xã hội.
a. Tổng nhu cầu khối lượng vốn đầu tư.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, vốn đầu tư là một
trong những yếu tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhu cầu vốn đầu tư với
quá trình tăng trưởng kinh tế có thể tính toán theo mô hình Harrod-Domar, phản ánh
k
I
hayg
k
s
g
quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư và hệ số ICOR của
nền kinh tế.
trong đó:
g: Là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
s: tỷ lệ tiết kiệm trong GDP
I: Tỷ lệ đầu tư trong GDP.
k: Hệ số gia tăng vốn.
Trong mô hình, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư
trong nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Hệ số gia tăng vốn đầu ra biểu hiện
mức độ gia tăng đầu tư so với mức độ gia tăng sản lượng của nền kinh tế, hay một đồng
vốn gia tăng sẽ tạo thêm bao nhiêu đồng sản lượng.
Hệ số ICOR:
Ngoài ra
Trong đó
Y: Sản lượng hay đầu ra của nền kinh tế.
K: Đầu vào vốn.
L: Đầu vào lao động
LY
LKICOR
K
L
LY
K
Y
K
/
/
./
1
Y
K
Y
K
K
Y/K: Năng suất vốn
Y/L: Năng suất lao động
K/L: Mức trang bị vốn trên một lao động.
Như vậy, hệ số ICOR sẽ phụ thuộc vào năng suất vốn, phụ thuộc vào tốc
độ trang bị vốn trên lao động và sự gia tăng năng suất lao động trong nền kinh tế. Nếu
năng suất lao động tăng nhanh hơn so với tốc độ trang bị vốn thì hệ số ICOR sẽ không
tăng mà giữ ở mức độ thấp.
Trong quá trình đầu tư, việc gia tăng vốn đầu tư nước ngoài và gia tăng
vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, các ngành có hàm lượng vốn cao, hệ thống ICOR có ảnh
hưởng đến khả năng tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Thực hiện CNH-HĐH, việc tập
trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội, đầu tư các ngành công nghiệp non trẻ,
các ngành công nghiệp có tính chất sống còn đối với nền kinh tế tất yếu.
Dựa vào mô hình Harro-Domar và mục tiêu tăng trường của nền kinh tế từ 6,7-
7,2%, lạm phát duy trì ở mức 4-5%. Bộ tài chính ước tính nhu cầu vốn đầu tư cho toàn
xã hội trong giai đoạn này vào khoảng 60%, vốn nước ngoài 40%.
b, Xác định con số tiết kiệm của kỳ kế hoạch.
Mục tiêu tăng trưởng kỳ k, k+1
Yk+1=Yk +YKH
Ykh = Yk +
1
k
(Ik - .kk)
Ik = k(Ykh – Yk) + .Kk
gkh =
ks
k
- . kk
sk = k(gkh + .k)
Từ sự sự phân tích trên ta xác định con số tiết kiệm nhằm đảm bảo mục tiêu tăng
trưởng kinh tế g=6,7-7,2%.
Từ tích lũy đã sử dụng vào trong quá trình đầu tư, giúp mở rộng quy mô sản
xuất, mở rộng quy mô vốn...
Tổng GDP được tạo ra trong 5 năm tới vào khoảng 2650-2660 nghìn đồng,
tương đương 190 tỷ USD, tổng quỹ tiêu dùng dự báo khoảng 5,5%/năm, tỷ lệ tích lũy
nội địa sẽ có khả năng nâng lên 28-30%GDP, trong đó tích lũy khu vực ngân sách
khoảng 6%GDP, khả năng huy động đưa vào đầu tư khoảng 80% tích lũy nội địa trong
năm đó là chưa tính đến nguồn vốn để giành từ các thời kỳ trước.
c.Phân chia tổng nhu cầu vốn đầu tư theo nhu cầu vốn đầu tư theo ngành và địa
phương.
Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội được tập trung cho nông nghiệp và nông thôn
khoảng 11,4%so tổng nguồn vốn tăng 26,5%/năm, cho ngành công nghiệp khoảng
43,7%, tăng 14,5%/năm, trong đó đầu tư cho các ngành công nghiệp chế biến và công
nghiệp chế biến sản xuất hàng tiêu dùng chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư ngành
công nghiệp, cho hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc khoảng 16,7% tăng
12,2%/năm cho lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế văn hóa khoảng
6,2% tăng 12%.
So với 5 năm trước, vốn đầu tư vùng miền núi phía Bắc gấp trên 1,8 lần, vùng
Đồng bằng Sông Hồng gấp 1,3 lần, vùng Bắc Trung Bộ gấp 1,5 lần, Vùng Duyên Hải
Miền Trung gấp 1,6 lần, vùng Tây Nguyên gấp 1,9 lần, vùng Đông Nam bộ gấp 1,7 lần,
vùng ĐBSCL gấp 2 lần.
Riêng nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước 5 năm ước tính thực hiện
khoảng 87 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn khoảng
22,5%, cho giao thông vận tải và bưu chính viễn thông 35,3%, cho khoa học và công
nghệ giáo dục, đào tạo, y tế văn hóa, thể dục thể thao 36,7%. Đến năm 2000 đạt được
mục tiêu 100% số huyện và 80% số xã, phường toàn quốc có điện. Tỷ lệ số dân được
cung cấp nước sạch đạt 60%so với mục tiêu 80%, trên 95% số xã đã có đã có vườn ô tô
vào đến trung tâm.
Định hướng trong 5 năm tới dành khoảng 15 % vốn ODA vào các ngành nông
nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp nông
thôn, xóa đói giảm nghèo, khoảng 25% cho ngành năng lượng và công nghiệp và
khoảng 28% cho ngành giao thông, bưu điện cấp thoát nước đô thị. Coi trọng sử dụng
vốn ODA trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, xã hội, giáo dục đào tạo, khoa
học công nghệ môi trường.
Đối với ngành công nghiệp, các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao và có xu
hướng tăng lên đáng kể trong giá trị sản xuất của toàn ngành.
Đối với ngành nông nghiệp tỉnh đến nay có 291dự án FDI đang hoạt động với
tổng đăng ký gần 2 tỷ USD, góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất, chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp, chuyển giao nhiều giống cây, con với sản phẩm chất lượng cao,
năng suất cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới .
2.Cân đối nhu cầu với các nguồn bảo đảm vốn đầu tư xã hội.
a. Cân đối vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.
Mục tiêu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 là đảm bảo tăng trưởng kinh tế từ
6,6-7,2%, lạm phát duy trì ở mức 4-5%, Bộ tài chính ước tính nhu cầu đầu tư của toàn
xã hội trong giai đoạn này khoảng 55-57 tỷ USD. Trong đó nguồn vốn trong nước
chiếm khoảng 64-70% tổng vốn đầu tư trong và toàn xã hội. Vốn nước ngoài bao gồm
nguồn ODA, FDI và vốn vay thương mại sẽ chiếm phần còn lại khoảng 30-36%. Như
vậy, ước tính tỷ lệ đầu tư trong GDP của nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2005 sẽ đạt
mức trung bình khoảng 28-29% so với GDP và hệ số ICOR của nền kinh tế phải được
duy trì vào khoảng 4,2. Điều này đặt ra cho nền kinh tế những mục tiêu trong nâng cao
hiệu quả đầu tư định hướng cơ cấu đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế,
chiến lược CNH-HĐH nền kinh tế, nhằm đảm bảo cho khả năng tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các quốc gia duy trì được hệ số ICOR thấp và tốc
độ tăng trưởng cao là nhờ cào việc tập trung đầu tư vào những ngành có lợi thế mạnh,
cạnh tranh tốt, hướng ra xuất khẩu, trong đó có vai trò tích cực của khu vực tư nhân.
Theo Bộ tài chính, trong thời gian tới Việt Nam có thể định hướng cơ cấu đầu tư như
sau: Phân bổ khoảng 15% vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp có lợi thế, có khả
năng cạnh tranh. Để đạt được yêu cầu này, cần phải có sự định hướng của Nhà nước
thông qua vốn Ngân sách thông qua chính sách ưu đãi đầu tư các ngành, các khu vực
đầu tư có hiệu quả cao trong hiện tại cũng như lâu dài đối với nền kinh tế. Việc thu hút
nguồn vốn đầu tư xã hội cũng được quan tâm trong khu vực khả năng khu vực tư nhân
chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng 28%, tương đương khoảng 16 tỷ USD Ngân sách Nhà
nước khoảng 21% tương đương khoảng 12 tỷ USD( trong đó khoảng 3 tỷ vốn vay
ODA); khu vực doanh nghiệp Nhà nước khoảng 16,5-17,5% tương đương khoảng 9 tỷ
USD, ngoài ra đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, trên một nửa của số vốn này có
nguồn gốc từ ODA để cho vay lại, để đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu đầu tư của nền
kinh tế trong giai đoạn này đạt 55-57 tỷ USD.
b.Cân đối vốn đầu tư trong nước.
Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm qua khoảng 440 tỷ đồng,
tương đương với gần 40 tỷ USD(theo mặt bằng giá năm 1995), tốc độ tăng bình quân
8,6%/năm. Trong đó vốn đầu tư thuộc Ngân sách Nhà nước chiếm 22,7%; vốn tín dụng
đầu tư chiếm 14,2%, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước chiếm 17,8%, vốn đầu tư
của tư nhân và dân cư chiếm 21,3%. Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn,
chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung vào những mục tiêu
phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, phát triển khoa học công nghệ đặc biệt là kết cấu hạ tầng. Nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội được tập trung cho nông nghiệp khoảng 11,4% so tổng nguồn, các ngành
công nghiệp 43,7%, trong đó đầu tư cho các ngành công nghiệp chế biến và công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư ngành công nghiệp,
giao thông vận tải và bưu chính viễn thông khoảng 15,7%; lĩnh vực khoa học công nghệ
giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa khoảng 6,7%, các ngành khác(công cộng, cấp thoát
nước, quản lý Nhà nước, thương mại, du lịch, xây dựng...)khoảng 22,5%.
Điều chỉnh chính sách và cơ cấu đầu tư, nên quy mô đầu tư ở các vùng ngày
càng tăng. So với 5 năm trước, vốn đầu tư cho vùng miền núi phía Bắc gấp trên 1,8 lần
và vùng Đồng Bằng Sông Hồng gấp 1,3 lần, vùng Bắc trung bộ gấp 1,5 lần,vùng Duyên
hải Miền trung gấp 1,7 lần, Vung Tây Nguyên gấp 1,9 lần, vùng Đông Nam Bộ gấp 1,7
lần và vung Đồng Bằng Cửu Long gấp gần 2 lần.
Riêng nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước, thực hiện trong 5 năm (1996-
2000)khoảng 100 nghìn tỷ đồng, đã tập trung hơn so với lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế –xã hội. Trong đó đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp khoảng 22,5%; cho
công nghiệp 9,5%; cho giao thông vận tải và bưu chính viễn thông 29,8%; cho khoa
học công nghệ; giáo dục, y tế...18,7%, các ngành khác 19,5%.
c.Cân đối vốn đầu tư nước ngoài.
Trong 5 năm qua 1996-2000, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa vào thực
hiện đạt khoảng 10 tỷ USD gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài cấp mới bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trước 34%. Cơ cấu
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của nước ta, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ
tầng kinh tế tăng từ 62% lên 85%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước thuộc liên minh Châu Âu, ASEAN có
chiều hướng tăng hơn so với 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng ký của các dự án từ EU bình
quân chiếm 23,2% tăng lên 25,8%, tỉ lệ vốn đăng ký từ các nước ASEAN đã tăng tương
ứng từ 17,3% lên 29,8%). Riêng các nước thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản chiếm 44% tổng
vốn đăng ký tại Việt nam.
Ngoài ra, các DNNN có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất
toàn ngành công nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 12% GDP
của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động
trực tiếp và hàng chục lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng, thương
mại, dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường.
III, Vai trò của vốn trong phát triển kinh tế xã hội
1. Biện pháp cân đối vĩ mô
Keynes đã có kết luận: Muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp Nhà nước
phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm tăng
cầu tiêu dùng.Trước hết ông đề nghị sử dụng ngân sách của Nhà nước để kích thích đầu
tư thông qua các đơn đặt hàng của Nhà nước và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Ông
đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công tác Nhà nước, qua đó để bổ xung cho
Ngân sách. Ông đề nghị giảm lãi xuất ngân hàng để khuyến khích đầu tư và đánh thuế
thu nhập theo luỹ tiến làm cho phân phối trở nên công bằng hơn, do đó sẽ làm tăng tổng
thu nhập mà nhân dân dùng cho tiêu dùng. Ông tán thành đầu tư của Chính phủ vào
công trình công cộng và các biện pháp như trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút .
Mặt khác, trong vài năm nay nguồn vốn Ngân sách đã góp phần quan trọng có
tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những lĩnh vực, những vùng, những
công trình mà các thành phần kinh tế khác không muốn làm hoặc không làm được và
có tác dụng như một nguồn vốn để thu hút các nguồn vốn khác.
Hơn thế nữa, đây cũng là một nguồn vốn Nhà nước có thể trực tiếp điều hành
theo kế hoạch để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Do vậy, Chính phủ có thể sử dụng
vốn để đầu tư nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế chính trị.
2. Vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế
Dựa vào mô hình Harrod-Domar.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một ngành công
nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra là g.
Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ S
s = t
t
s
y
Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm
(St=It).
s = t
t
I
Y
Đầu tư chính l