Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) khác
được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng,nhận thức của các Đảng va Nhà
Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH.ở Việt Nam,từ sau
những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự chỉ là một khoảng thời
gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một đất nước.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vượt
bậc.Từ một nước nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào các khoản
viện trợ,trợ giúp của các nước khác,Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo
đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và
Dịch Vụ đã đạt được những thành quả đáng kể,đời sống của nhân dân được cải thiện
vv.Có được sự phát triển đó,như trên đã nêu,chính là nhờ sự đổi mới trong nhận
thức,tư duy về CNXH và con đường
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới trong
nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng như sự đánh giá lại
vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng .Đảng và Nhà Nước ta
đã khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và vai
trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm đưa Việt
Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xây dựng thành
công CNXH.
Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận trong
việc phát triển nền kinh tế là như thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến bây giờ
mới được đặt ra mà từ rất lâu rồi con người đã có nhiều những quan điểm khác nhau về
lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trường phái lý luận trước Mác cho đến những
trường phái lý luận ngày nay,mỗi trường phái đều có những luận điểm,học thuyết của
mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan điểm đó,học thuyết của Chủ
Nghĩa Mác(CN Mác),được xây dựng trên nền tảng lý luận giá trị thặng dư(GTTD),đã
giải thích được một cách đầy đủ,chính xác và khoa học nhất về nguồc gốc,bản chất và
vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ học thuyết của CN Mác nói chung và
những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói riêng đã được Đảng ta coi là cơ sở lý luận
quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Hơn nữa,do những hạn chế về mặt lịch sử cho nên dù các học thuyết này có đúng đến
mấy cũng luôn đòi hỏi phải được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh
của mỗi quốc gia .Chính vì vậy mà đề án này,không chỉ phân tích nguồn gốc,bản chất
của lợi nhuận trong quan điểm của một số các trường phái từ trước đến nay,đặc biệt là
học thuyết của Mác , xem xét tới vai trò của lợi nhuận như là một động lực cơ bản của
nền kinh tế thị trường(KTTT) mà còn xem xét tới quá trình vận dụng lý luận vào thực
tiễn ở nước ta để thấy được rõ nét hơn vai trò động lực của lợi nhuận
56 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2001 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Học thuyết của Mác, xem xét tới
vai trò của lợi nhuận
LờI NóI Đầu
Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) khác
được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng,nhận thức của các Đảng va Nhà
Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH.ở Việt Nam,từ sau
những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự chỉ là một khoảng thời
gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một đất nước.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vượt
bậc.Từ một nước nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào các khoản
viện trợ,trợ giúp của các nước khác,Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo
đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và
Dịch Vụ đã đạt được những thành quả đáng kể,đời sống của nhân dân được cải thiện
vv...Có được sự phát triển đó,như trên đã nêu,chính là nhờ sự đổi mới trong nhận
thức,tư duy về CNXH và con đường
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới trong
nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng như sự đánh giá lại
vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng .Đảng và Nhà Nước ta
đã khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và vai
trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm đưa Việt
Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xây dựng thành
công CNXH.
Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận trong
việc phát triển nền kinh tế là như thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến bây giờ
mới được đặt ra mà từ rất lâu rồi con người đã có nhiều những quan điểm khác nhau về
lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trường phái lý luận trước Mác cho đến những
trường phái lý luận ngày nay,mỗi trường phái đều có những luận điểm,học thuyết của
mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan điểm đó,học thuyết của Chủ
Nghĩa Mác(CN Mác),được xây dựng trên nền tảng lý luận giá trị thặng dư(GTTD),đã
giải thích được một cách đầy đủ,chính xác và khoa học nhất về nguồc gốc,bản chất và
vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ học thuyết của CN Mác nói chung và
những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói riêng đã được Đảng ta coi là cơ sở lý luận
quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Hơn nữa,do những hạn chế về mặt lịch sử cho nên dù các học thuyết này có đúng đến
mấy cũng luôn đòi hỏi phải được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh
của mỗi quốc gia .Chính vì vậy mà đề án này,không chỉ phân tích nguồn gốc,bản chất
của lợi nhuận trong quan điểm của một số các trường phái từ trước đến nay,đặc biệt là
học thuyết của Mác , xem xét tới vai trò của lợi nhuận như là một động lực cơ bản của
nền kinh tế thị trường(KTTT) mà còn xem xét tới quá trình vận dụng lý luận vào thực
tiễn ở nước ta để thấy được rõ nét hơn vai trò động lực của lợi nhuận.
PHầN I : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
i/ Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết phi Mác-xít:
1/Quan điểm của trường phái Trọng Thương về lợi nhuận:
Về mặt hoàn cảnh lịch sử,Chủ Nghĩa Trọng Thương(CNTT) được ra đời vào thời kỳ
tích luỹ nguyên thuỷ của giai cấp tư bản.ở giai đoạn này,vấn đề được quan tâm hàng
đầu và mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đó là tiền.Mọi cá nhân,mọi tổ chức,thậm
chí là mọi quốc gia đều tìm mọi cách để tích trữ thật nhiều tiền,như nhận xét của Engels
sau này thì
"các dân tộc chống đối nhau như những kẻ bủn xỉn,hai tay ôm khư khư túi tiền quí báu,
nhìn sang người láng giềng với con mắt ghen tỵ,đa nghi".
Do được hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử như vậy cho nên toàn bộ học thuyết
của CNTT nói chung và quan điểm về lợi nhuận nói riêng đều được xây dựng trên cơ sở
đồng nhất giá trị với tiền bạc và lấy đối tượng nghiên cứu của Kinh Tế Chính
Trị(KTCT) là lĩnh vực lưu thông,coi KTCT "là khoa học về của cải thương mại mà
nhiệm vụ của nó là bán nhiều mua ít".Chính vì vậy,CNTT cho rằng lợi nhuận là do lĩnh
vực lưu thông,do sự mua bán trao đổi mà sinh ra.Nó là kết quả của việc mua ít bán
nhiều ,mua rẻ bán đắt mà có.Họ cho rằng muốn có đượclợi nhuận thì không có cách nào
khác ngoài việc trao đổi buôn bán.
Về vai trò của lợi nhuận thì CNTT đã khẳng định rằng lợi nhuận luôn là mục tiêu của
mọi hoạt động trao đổi mua bán trên thị trường.Điều này được thể hiện qua việc một
quốc gia phải luôn đảm bảo xuất siêu như Thomas Mun đã viết:" Chúng ta phải thường
xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho người nước ngoài với số lượng hàng
hoá lớn hơn số lượng chúng ta phải mua của họ".Còn đối với các thương nhân thì mục
tiêu của họ luôn là mua rẻ bán đắt nhằm thu được phần lợi nhuận chênh lệch.
Nhìn chung thì các quan điểm về lợi nhuận của CNTT,cũng như các quan điểm khác
của họ,chưa có được sự nhận thức,phân tích mang tính khoa học sâu sắc ,chưa mang
tính quy luật.Tuy nhiên,các quan điểm này cũng đóng vai trò khá quan trọng, làm tiền
đề cho các học thuyết kinh tế sau này.
2/Quan điểm của trường phái Tư Sản Cổ Điển về lợi nhuận:
Có thể nói rằng,trong giai đoạn trước Mác,trường phái Tư Sản Cổ Điển(TSCĐ) là
trường phái tiến bộ nhất.Đây cũng là một trong ba trường phái được Mác chọn làm tiền
đề lý luận cho học thuyết của mình.Sở dĩ trường phái TSCĐ được đánh giá cao như vậy
là do đây là trường phái đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu của KTCT từ lĩnh vực
lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.Đó cũng là lần đầu tiên các nhà kinh tế học không
dừng lại ở việc nghiên cứu,xem xét hiện tượng bên ngoài mà đã sử dụng phương pháp
trừu tượng hoá khoa học để đi sâu vào nhận thức,phân tích nhằm tìm ra bản chất và tính
quy luật của các sự vật,hiện tượng đồng thời xây dựng một hệ thống các phạm trù như
giá trị,giá cả,lợi nhuận vv...
Được hình thành trong giai đoạn đầu của Chủ Nghĩa Tư Bản(CNTB),trường phái
TSCĐ đã có một số những đại biểu kiệt xuất như W.Petty,A.Smith,D.Ricardo,vv...Quan
điểm của các đại biểu này về lợi nhuận vừa mang tính kế thừa người đi trước vừa mang
tính sáng tạo mà trong đó có một số quan điểm nổi bật về lợi nhuận cuả phái Trọng
Nông,A.Smith hay D.ricardo mà ta sẽ xem xét sau đây.
Trước tiên là phái Trọng Nông,mặc dù thừa nhận quy luật giá trị tuy nhiên họ lại cho
rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra giá trị,tạo ra cái mà họ gọi là sản
phẩm thuần tuý còn lao động trong các nghành nghề khác như trong công nghiệp hay
thương nghiệp thì không tạo ra giá trị.Sở dĩ như vậy,theo họ giải thích,là do trong nông
nghiệp ngoài sức lao động của chính mình ra thì người nông dân còn được sự trợ giúp
của thiên nhiên.Vì vậy mà lợi nhuận,theo quan điểm của họ,chính là phần thu nhập
không lao động của nhà tư bản do người nông dân tạo ra.ở đây,mặc dù còn hạn chế khi
cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý tuy nhiên trường
phái Trọng Nông đã có một đóng góp quan trọng đó là bước đầu tìm ra nguồn gốc của
cái gọi là sản phẩm thuần tuý,xét về bản chất chính là GTTD.Ngoài ra,trong lý luận của
phái Trọng Nông,đã xuất hiện những mầm mống tư tưởng về lợi nhuận bình quân và xu
hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.
Đến A.Smith,người được coi là đại biểu của trường phái TSCĐ trong thời kỳ công
trường
thủ công,thì đã có những bước tiến đáng kể về lý luận so với phái Trọng Nông.Ông
khẳng định rằng không chỉ lao động trong nông nghiệp mà tất cả mọi hình thức lao
động khác cũng đều tạo ra giá trị và lao động chính là thước đo của giá trị.Dựa trên
quan điểm đúng đắn về giá trị lao động,A.Smith đã đưa ra những lý luận của mình về
lợi nhuận.Ông cho rằng phần giá trị mà người lao động tạo ra được phân chia thành tiền
lương trả cho người lao động,địa tô trả cho địa chủ và lợi nhuận trả cho nhà tư bản.Nói
như vậy có nghĩa là nếu như ta coi địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất thì lợi nhuận chính
là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động và chúng đều có chung một
nguồn gốc là lao động không dược trả công của người lao động.Xét về mặt lượng thì địa
tô và lợi nhuận chính là những khoản dôi ra ngoài tiền lương của người lao động còn xét
về mặt chất thì chúng phản ánh quan hệ bóc lột của tư bản và địa chủ đối với người lao
động.Ông chỉ rõ rằng " Khi sở hữu TBCN xuất hiện,người công nhân trở thành lao động
làm thuê thì tiền lương của họ không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ
sản xuất ra nữa,mà chỉ là một bộ phận của giá trị đó".Ngoài ra,A.Smith cũng đã thấy
được xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút
do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
D.Ricardo đã kế thừa một cách xuất sắc những tư tưởng của A.Smith.Là người sống
trong thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp nên D.Ricardo đã có được những
điều kiện khách quan để tiếp tục phát triển học thuyết của A.Smith.Về lợi
nhuận,D.Ricardo cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho
người công nhân.Tiến bộ hơn A.Smith,Ricardo không những đã thấy được xu hướng
giảm sút của tỷ suất lợi nhuận bình quân mà còn giải thích được nguyên nhân của sự
giảm sút là do sự vận động , biến đổi của thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ,công nhân
và nhà tư bản.Ông giải thích rằng do trong nông nghiệp có tồn tại quy luật màu mỡ của
đất đai ngày càng giảm,vì vậy,giá cả của nông phẩm sẽ ngày càng tăng lên làm cho tiền
công của công nhân và địa tô của địa chủ cũng tăng lên trong khi lợi nhuận của nhà tư
bản thì không tăng theo.Do vậy mà tỷ suất lợi nhuận sẽ ngày càng giảm xuống,gây thiệt
hại cho nhà tư bản.Tuy nhiên, đây chỉ là những luận giải được thiết lập trên cơ sở
những quan sát bên ngoài sự vật,hiện tượng chứ không hề mang tính khoa học.Chỉ đến
khi Chủ Nghĩa Mác-Lênin(CN M-L) xuất hiện,với việc phân chia tư bản thành tư bản
bất biến và tư bản khả biến,mới giải thích được đúng đắn quy luật tỷ suất lợi nhuận có
xu hướng giảm dần.
Trên đây,chúng ta đã xét tới một số trường phái lý luận trước Mác,các trường phái
này đều là các trường phái có những quan điểm tiến bộ ,về lợi nhuận nói riêng và về các
phạm trù kinh tế học khác nói chung,đặc biệt là trường phái TSCĐ.Những quan điểm
này đều đã đạt được những thành tựu nhất định mặc dù vẫn còn rất nhiều hạn chế.Sở dĩ
như vậy là do các học thuyết này phát sinh vào giai đoạn đầu mới hình thành của CNTB
, lúc này mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản chưa gay gắt lắm còn
mâu thuẫn cơ bản của xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa tư sản và địa chủ.Hơn
nữa,vào lúc đó,chưa có một học thuyết nào,đứng về phe giai cấp công nhân,được hình
thành để giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và chủ tư bản.Chính vì vậy cho
nên các nhà lý luận của giai cấp tư bản mới có thể đưa ra các học thuyết ít nhiều còn
mang tính khoa học.
Tuy nhiên,trong giai đoạn sau của CNTB,sự phát triển của CNTB đã bắt đầu bộc lộ
ngày càng rõ nét những mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.Đã bắt
đầu có những xung đột ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa hai giai cấp được thể hiện
qua các hiện tượng xã hội như khủng hoảng,thất nghiệp,sự phá sản của sản xuất nhỏ hay
quá trình bần cùng hoá giai cấp vô sản vv...Các phong trào đấu tranh của công nhân
bùng nổ ngày càng nhiều.Đặc biệt là từ sau khi xuất hiện CN M-L ,với vai trò như một
lý luận chỉ đường cho giai cấp công nhân,chỉ ra sứ mệnh lịch sử của họ trong việc xoá
bỏ và thay thế PTSX TBCN bằng một PTSX tiến bộ hơn,PTSX XHCN ,thì sức ép lên
giai cấp tư sản ngày càng tăng.Chính vì vậy,trong giai đoạn này,các nhà lý luận của giai
cấp tư bản đã ra sức xuyên tạc,bẻ cong những lú luận đúng đắn trước kia và đưa ra
những lý luận sai lầm nhằm giải thích các hiện tượng xã hội kể trên với mục đích che
dấu bản chất bóc lột của CNTB.Do đó
các học thuyết hình thành trong thời kỳ này nói chung và các lý luận về lợi nhuận nói
riêng không còn mang tính khoa học nữa.Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số trường
phái như vậy,trên cơ sở phân tích các lý luận về lợi nhuận để thấy rõ bản chất phi khoa
học của các học thuyết này.
3/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Hậu Cổ Điển:
Trường phái Hậu Cổ Điển(HCĐ),mặc dù xuất hiện ngay sau trường phái TSCĐ
nhưng các nhà lý luận của trường phái HCĐ lại hoàn toàn xa rời những lý luận cuả
trường phái TSCĐ.Họ rời bỏ phương pháp trừu tượng hoá khoa học,không đi sâu vào
phân tích bản chất của sự vật,hiện tượng mà chỉ xem xét hời hợt bên ngoài.Đặc biệt là
họ đã áp dụng phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế,"coi KTCT là khoa
học nghiên cứu về đạo đức xã hội".Hơn nữa,họ lại xa rời lý thuyết về giá trị lao động và
đưa ra các lý luận về giá trị ích lợi hay giá trị các nhân tố sản xuất vv...Ta có thể thấy
được điều đó qua các học thuyết của một số đại diện tiêu biểu cho trường phái này như
R.Malthus và J.B.Say.
Đối với Malthus,trên cơ sở quan điểm sai lầm của A.Smith về giá trị,ông đã phát triển
lên và cho rằng:"Giá trị của hàng hoá do lao động mà hàng hoá đó có thể mua được
bằng những chi phí để sản xuất ra nó.Các chi phí này bao gồm chi phí về lao động
sống,chi phí về lao động vật hoá cộng với lợi nhuận tư bản ứng trước".Như vậy là dựa
trên quan điểm sai lầm về giá trị,Malthus đã đưa ra quan niệm sai lầm về lợi nhuận,coi
lợi nhuận"là khoản dôi ra ngoài chi phí về lao động sống và lao động vật hoá".Với quan
niệm này về lợi nhuận
vô hình chung,Malthus đã dẫn tới một cách giải thích sai lầm về nguồn gốc của lợi
nhuận,cho rằng không chỉ sức lao động của người công nhân mà cả các công cụ lao
động và đối tượng lao động cũng tham gia vào quá trình hình thành lợi nhuận.
Còn theo J.B.Say,người ủng hộ quan điểm giá trị ích lợi,thì cho rằng ích lợi của vật
quyết định giá trị của nó,ích lợi càng cao thì giá trị của vật càng lớn,coi ích lợi là thước
đo của giá trị.Dựa trên cơ sở thuyết giá trị ích lợi,Say đã đưa ra lý thuyết về ba nhân tố
sản xuất.Ông cho rằng có ba nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất là lao động,đất đai
và tư bản,mỗi nhân tố có ích lợi riêng và tạo ra những phần giá trị tương ứng.Do
vậy,Say đã coi lợi nhuận như là phần giá trị của hàng hoá được tạo ra do ích lợi của tư
bản,có nghĩa là ,coi lợi nhuận như là hiệu suất đầu tư của tư bản.Luận điểm này tất yếu
dẫn tới việc cho rằng những máy móc tham gia vào quá trình sản xuất cũng tham gia
vào quá trình tạo ra giá trị chứ không phải chỉ riêng lao động của công nhân mới tạo ra
giá trị.Hơn nữa,Say còn cho rằng lợi nhuận là tiền lương của nhà quản lý kinh doanh,là
phần thưởng cho những nhà đầu tư dám mạo hiểm.Ta có thể thấy rằng đó hoàn toàn là
những quan điểm sai lầm.
4/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Cổ Điển Mới:
Xuất hiện trong giai đoạn bắt đầu sự chuyển đổi từ CNTB tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền,đặc biệt là được hình thành sau khi CN Mác ra đời,trường phái Cổ
Điển Mới (CĐM) ra đời nhằm mục đích biện hộ cho CNTB trước những hiện tượng
kinh tế mới phát sinh như tình trạng độc quyền và những hậu quả về mặt xã hội của nó
vv...Ngoài ra nó còn có một nhiệm vụ khác là phê phán CN Mác,phủ nhận những lý
luận khoa học của Mác về bản chất bóc lột của giai cấp tư bản,sự diệt vong tất yếu của
CNTB và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vv...nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp
tư sản.ủng hộ tư tưởng tự do cạnh tranh,áp dụng phép phân tích vi mô nền kinh tế,kế
thừa và tiếp tục phát triển lý thuyết giá trị tâm lý chủ quan là các đặc điểm nổi bật của
trường phái CĐM.Dựa trên các đặc điểm cơ bản đó thì mỗi đại biểu của trường phái
CĐM lại có những quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Với J.B.Clark,ông đã phát triển lý thuyết 'ích lợi giới hạn' lên thành lý thuyết 'năng
suất giới hạn' và từ đó đưa ra lý thuyết 'năng lực chịu trách nhiệm' của các nhân tố sản
xuất.Ông cho rằng thu nhập là năng lực chịu trách của các nhân tố sản xuất,cụ thể là,tiền
lương là năng lực chịu trách nhiệm của lao động,địa tô là năng lực chịu trách nhiệm của
đất đai còn lợi nhuận là năng lực chịu trách nhiệm của tư bản.Nói như vậy có nghĩa là
lợi nhuận,thực chất,được coi là tiền lương trả cho nhà sản xuất-kinh doanh.Hoặc như
Alfred Marshall thì lại coi lợi nhuận như là khoản tiền thù lao thuần túy cho năng khiếu
quản lý kinh doanh,sử dụng tư bản và năng lực tổ chức hoạt động sản xuất.
Nhìn chung,các quan điểm về lợi nhuận của một số trường phái phi Mácxit kể
trên,mặc dù có một số trường phái có những quan điểm tiến bộ,đặc biệt là các trường
phái trước Mác, nhưng chúng vẫn chưa thể có được tính chính xác và khoa học một
cách trọn vẹn.Sở dĩ như vậy là vì các quan điểm này được xây dựng trên cơ sở những
luận điểm,hoặc là chưa đúng đắn,chính xác hoặc là sai lầm hoàn toàn,về giá trị.Vì vậy
mà ngay cả những nhà tư tưởng tiến bộ nhất của trường phái TSCĐ cũng chưa thể xác
định được đầy đủ và chính xác về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.Chỉ đến khi CN
Mác xuất hiện,trên cơ sở kế thừa và phát triển tiếp tục những quan điểm đúng đắn của
các trường phái trước đó,mới có thể giải thích một cách khoa học,chính xác và đầy đủ
về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
ii/Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác:
Như trên đã phân tích,chỉ đến khi CN Mác xuất hiện thì nguồn gốc và bản chất của
lợi nhuận mới được làm sáng tỏ thông qua các học thuyết kinh tế của CN Mác.Dựa trên
việc kế thừa những tư tưởng tiến bộ,khoa học của các trường phái lý luận trước đó,Mác
đã sáng tạo ra học thuyết của mình mà trong đó,nổi bật và có vai trò như "một hòn đá
tảng" trong toàn bộ học thuyết chính là những lý luận về giá trị thặng dư(GTTD).Dựa
cơ sở đó,Mác đã phân tích và làm sáng tỏ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận cũng
như đã giải thích được sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận bình quân và bản chất của
quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần.Ngoài ra,Mác cũng đã thấy được và
phân tích một cách khoa học sự phân chia của lợi nhuận thành các hình thức khác nhau
như lợi nhuận công nghiệp(LNCN),lợi nhuận thương nghiệp(LNTN),lợi tức cho
vay(LTCV),lợi nhuận ngân hàng(LNNH),địa tô(ĐT) và cuối cùng là lợi nhuận độc
quyền(LNĐQ).
Sau đây,chúng ta sẽ lần lượt xem xét các vấn đề trên trong học thuyết của Mác.
1/Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Để thấy được sự hình thành của lợi nhuận,trước tiên ta hãy xem xét về khái niệm mà
mác gọi là chi phí sản xuất(CPSX).
Như chúng ta đã biết,giá trị của hàng hoá được cấu thành nên từ chi phí cho lao động
trong quá khứ,chi phí cho lao động sống và phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình
sản xuất.Tuy nhiên,đối với nhà tư bản thì họ không quan tâm tới sự cấu thành của giá trị
hàng hoá mà họ chỉ quan tâm tới việc phải bỏ ra bao nhiêu tư bản và sẽ thu lại được cái
gì.
Để tiến hành sản xuất ra một sản phẩm thì trên thực tế nhà tư bản sẽ phải ứng tư bản
ra để mua các tư liệu sản xuất(TLSX),được ký hiệu là (c), và để thuê lao động,được ký
hiệu là (v).Toàn bộ phần tư bản này được gọi là tư bản ứng trước(TBƯT).Tuy
nhiên,theo Mác thì không phải toàn bộ phần TBƯT này đều được chuyển dịch hết vào
giá trị của hàng hoá mà chỉ có một phần lượng tư bản được dùng để ứng trước cho
TLSX và toàn bộ lượng tư bản được dùng để ứng trước cho lao động là cấu tạo trực tiếp
nên giá trị của hàng hoá. Phần giá trị này được Mác gọi là CPSX ,được ký hiệu là (k) và
được biểu diễn dưới công thức:
k=c+v
Với sự hình thành khái niệm CPSX,nhà tư bản đã bước đầu che dấu được sự hình
thành của giá trị thặng dư(GTTD) và tạo điều kiện để hình thành nên khái niệm lợi
nhuận.Có thể thấy rõ được điều này qua việc nghiên cứu những phân tích của Mác về
công thức của CFSX trên.
Trước tiên,ta hãy xen lại định nghĩa của Mác về GTTD.Theo Mác thì "giá trị thặng
dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản
chiếm không".Như vậy,theo Mác thì GTTD chính là phần lao động không được trả công
của người công nhâ