Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta sau những năm
đổi mới đã đạt được nhiều kết quả rất to lớn. Đất nước đã vượt qua những khó khăn, đời
sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất
nước đã tạo ra những điều kiện, tiền đề quan trọng ban đầu đưa nước ta chuyển sang thời kỳ
phát triển mới, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu: “... Sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [9, tr. 76].
Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi cần phải có vốn. Vốn là một trong những yếu tố
quyết định của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, với chức năng
trung tâm tài chính, các Ngân hàng thương mại đã thực hiện tốt phương châm “ Đi vay để
cho vay”, nổ lực thu hút nhiều nguồn vốn nhàn rỗi để cung ứng vốn cho các dự án đầu tư,
cho vay các doanh nghiệp, hộ gia đình, góp phần kích thích sản xuất, lưu thông hàng hoá và
phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trước xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới và nhu cầu tăng trưởng kinh
tế của đất nước đã đặt các Ngân hàng thương mại cần phải nổ lực, cải tiến hơn nữa để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ được đặt ra.
Thực tiễn công tác huy động và quản lý, sử dụng nguồn vốn trong hệ thống Ngân hàng
đang là vấn đề bức xúc trên nhiều mặt đòi hỏi cần phải được củng cố, từng bước có những giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu nhằm huy động, quản lý, sử dụng nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội một cách hiệu quả.
Tiên Phước là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, có nhiều tiềm năng, nhiều
thế mạnh cho phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp -thương mại và dịch vụ, đặc biệt là điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp cho việc phát
triển kinh tế vườn, trang trại, chăn nuôi, phát triển ngành nghề... do đó nhu cầu về vốn để
phát triển kinh tế - xó hội của huyện là rất lớn.
Vì vậy việc chọn đề tài “Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam” có ý nghĩa hết sức cấp thiết.
98 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2238 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - Xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh
Quảng Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta sau những năm
đổi mới đã đạt được nhiều kết quả rất to lớn. Đất nước đã vượt qua những khó khăn, đời
sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất
nước đã tạo ra những điều kiện, tiền đề quan trọng ban đầu đưa nước ta chuyển sang thời kỳ
phát triển mới, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu: “... Sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [9, tr. 76].
Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi cần phải có vốn. Vốn là một trong những yếu tố
quyết định của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, với chức năng
trung tâm tài chính, các Ngân hàng thương mại đã thực hiện tốt phương châm “ Đi vay để
cho vay”, nổ lực thu hút nhiều nguồn vốn nhàn rỗi để cung ứng vốn cho các dự án đầu tư,
cho vay các doanh nghiệp, hộ gia đình, góp phần kích thích sản xuất, lưu thông hàng hoá và
phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trước xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới và nhu cầu tăng trưởng kinh
tế của đất nước đã đặt các Ngân hàng thương mại cần phải nổ lực, cải tiến hơn nữa để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ được đặt ra.
Thực tiễn công tác huy động và quản lý, sử dụng nguồn vốn trong hệ thống Ngân hàng
đang là vấn đề bức xúc trên nhiều mặt đòi hỏi cần phải được củng cố, từng bước có những giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu nhằm huy động, quản lý, sử dụng nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội một cách hiệu quả.
Tiên Phước là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, có nhiều tiềm năng, nhiều
thế mạnh cho phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp -
thương mại và dịch vụ, đặc biệt là điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp cho việc phát
triển kinh tế vườn, trang trại, chăn nuôi, phát triển ngành nghề... do đó nhu cầu về vốn để
phát triển kinh tế - xó hội của huyện là rất lớn.
Vì vậy việc chọn đề tài “Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam” có ý nghĩa hết sức cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế được nhiều nhà kinh tế trên thế giới quan
tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận bàn trong nhiều tác phẩm.
ở nước ta vấn đề nguồn vốn nói chung, thu hút vốn huy động và quản lý, sử dụng vốn
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong hệ thống ngân hàng nói riêng được nhiều người
quan tâm nghiên cứu. Một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được đăng tải trên
các tạp chí chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng... như:
- Năm 1997, Ngân hàng nhà nước Việt Nam xuất bản “Ngân hàng Việt Nam với
chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, với nhiều tác giả
đề cập đến các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút mọi nguồn vốn vào ngân hàng để góp phần
vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Hà Thị Sáu: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn trong dân”, Tạp
chí Ngân hàng tháng 7/2002, đã đưa ra một số vấn đề để tăng cường công tác huy động vốn
trong khu vực dân cư.
- Đề án huy động vốn trong dân cư (Ngày 08/6/2004) của Chi nhánh Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam về thực trạng, mục tiêu và giải pháp
huy động vốn trong dân cư giai đoạn 2004 - 2010.
- Nguyễn Văn Lâm: “Vốn và đầu tư vốn của các tổ chức tín dụng phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”, Tạp chí Ngân hàng tháng 2/2006.
- Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Đức Thuấn về Huy động vốn để phát
triển kinh tế ở Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp, Hà Nội, 1998. Mục tiêu của luận án là
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc huy động vốn để đề xuất một số giải pháp huy
động các nguồn vốn tiền tệ cho phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật ở Đà Nẵng, để Đà
Nẵng thực sự là thành phố trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài tuy phong phú, đa dạng nhưng
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và trùng lắp với đề tài: “Vốn
huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam”
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, là người trực tiếp tham gia công tác trong Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn, bản thân tôi lựa chọn đề tài này để đi sâu nghiên cứu,
góp phần làm rỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác thu hút vốn huy động để phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thu hút vốn huy động tại Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, luận văn đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tại Chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rỏ khái niệm về vốn huy động và vai trò của nó đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế
- xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước,
tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu vốn huy động tại Chi nhánh Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước,
tỉnh Quảng Nam.
Số liệu được tính từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các quan điểm của Đảng bộ
tỉnh Quảng Nam, của huyện Tiên Phước về vốn và huy động vốn nói chung, huy động vốn để
phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, coi trọng phương pháp
tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, hệ thống, kết hợp với phương pháp điều tra, khảo sát
thực tiễn và kinh nghiệm về vấn đề huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
6. Những đóng góp của luận văn
Góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn huy động và vai trò của vốn
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình hiện nay.
Phân tích thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế -
xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương, 8
tiết.
Chương 1
Vốn huy động và vai trò của nó
trong việc phát triển kinh tế - xã hội
1.1. Vốn huy động, các hình thức thu hút vốn huy động
Như chúng ta đã biết, muốn tiến hành quá trình sản xuất thì phải có vốn, vốn là điều
kiện quyết định để tạo ra của cải vật chất và tiến bộ xã hội. Vốn có vai trò to lớn đối với
phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế, vốn là một trong những điều kiện có ý nghĩa
quyết định đế thực hiện CNH, HĐH đất nước. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất
trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, chất lượng hàng hoá sản xuất ra,
tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố tài nguyên và lao động. Vốn trở thành
nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.1 Khái niệm về vốn
Vốn là phạm trù kinh tế, đã được các nhà kinh tế học đề cập từ lâu với nhiều quan
niệm thể hiện trong các học thuyết kinh tế khác nhau. .
Theo quan niệm của kinh tế học Mác xít, trong bộ “Tư bản” Các Mác đã nghiên cứu
và khái quát phạm trù vốn thông qua nghiên cứu phạm trù tư bản. Nguồn gốc chủ yếu của tư
bản (vốn) là lao động. Để tái sản xuất mở rộng đòi hỏi phải tích luỹ vốn. Các Mác đã chỉ ra
rằng: Thực chất của tư bản tích luỹ là việc chuyển hoá một phần ngày càng lớn giá trị thặng
dư thành tư bản và sử dụng phần đó vào quá trình tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình vận
động, bất kỳ tư bản nào cũng vận động trải qua ba giai đoạn: mua - sản xuất - bán hàng hoá,
tương ứng với mỗi giai đoạn, tư bản mang một hình thái: Tư bản tiền tệ - tư bản sản xuất -
tư bản hàng hoá. Ba hình thái tư bản này sắp xếp kề nhau trong không gian và vận động liên
tục trong thời gian. Bộ phận thứ nhất tồn tại dưới dạng tiền và luôn sẳn sàng đi vào lưu
thông để mua các yếu tố của sản xuất, bộ phận thứ hai gồm sức lao động và tư liệu sản xuất
theo quan hệ tỷ lệ thích hợp sẳn sàng đi vào quá trình sản xuất, bộ phận thứ ba là những
hàng hoá sẳn sàng đem ra thị trường bán để thu tiền về và tiếp tục chu trình mới.
Từ những luận điểm Các Mác về tuần hoàn của tư bản, có thể rút ra kết luận: Vốn là
những đại lượng giá trị tồn tại dưới ba hình thái kế tiếp nhau: tiền, các yếu tố của quá trình
sản xuất, hàng hoá. Sự vận động của vốn là sự chuyển hoá của các hình thái từ hình thái này
sang hình thái kế tiếp.
Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng của
hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong phát triển
kinh tế vẫn được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều bình diện
khác nhau.
Như vậy, vốn là những đại lượng giá trị, là kết tinh lao động xã hội. Tiền giấy do
Nhà nước phát hành là những ký hiệu của giá trị. Nó chỉ trở thành một hình thức của vốn
khi được bảo đảm bằng giá trị tài sản thật. Tiền được phát hành đưa vào lưu thông trên thị
trường, chúng ta không thể phân biệt đâu là tiền được bảo đảm bằng tài sản thật, đâu là tiền
không được bảo đảm bằng tài sản thật, điều đó đã tạo ra cơ hội cho lạm phát, làm cho sức
mua đồng tiền giảm sút.
Quá trình phát triển lưu thông hàng hoá làm xuất hiện nhiều hình thức tiền tệ. Có thể
nói tiền tệ là toàn bộ các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán (tiền mặt, séc, thẻ tín
dụng, thẻ thanh toán) và phương tiện cất trữ. Khái niệm tiền tệ theo nghĩa hẹp chỉ là tiền mặt, và
theo nghĩa rộng là bao gồm toàn bộ các phương tiện nói trên thực hiện một số chức năng của
tiền tệ, trong đó kể cả chứng khoán. Tiền chỉ trở thành vốn khi thoả mản hai điều kiện:
Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản thực.
Thứ hai, tiền phải vận động trong môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm mục đích sinh
lời.
Tiền đem ra tiêu dùng hằng ngày hay đưa vào cất trữ thì không phải là vốn. Việc đưa
tiền vào cất trữ chẳng những làm mất lợi nhuận do nó đem lại, mà còn không tạo ra sự phát
triển của nền kinh tế. Vốn đưa vào hoạt động, dù lĩnh vực kinh doanh nào thì điểm xuất phát
vốn đều tồn tại dưới hình thức tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức vận động của tiền với tư cách là vốn do
phương thức đầu tư cụ thể quyết định. Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức:
a) T - H...SX...H’ - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp
sản xuất. Thực chất, đó cũng chính là mô hình tái sản xuất xã hội nói chung.
b) T - H - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp thương mại
- dịch vụ.
c) T - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các tổ chức tài chính trung gian.
Trong đó:
T: Lượng tiền ứng ra để đầu tư phát triển.
H: Hàng hoá với tư cách là tư liệu sản xuất, sức lao động, hàng hoá dự trữ...
SX: Quá trình sản xuât - kinh doanh.
H’: Hàng hoá thu được sau quá trình sản xuất - kinh doanh.
T’: Lượng tiền thu được khi kết thúc chu kỳ kinh doanh [T’>T và T’= T+t] ( t là
lượng giá trị tăng thêm).
Hình thức bề ngoài sự vận động của vốn ở các lĩnh vực kinh doanh tuy có khác nhau,
song sự vận động của vốn các tổ chức tài chính trung gian, của các doanh nghiệp thương
mại - dịch vụ chỉ là những hình thái đặc thù được tách ra từ sự vận động của vốn các doanh
nghiệp sản xuất. Sự vận động của vốn trong các hình thức kinh doanh trên đây có điểm
giống nhau là qua vận động, vốn trở về điểm xuất phát và “lớn lên” sau một chu kỳ vận
động. Vì vậy, từng doanh nghiệp, từng ngành, từng địa phương và chung cho cả nền kinh tế
phải tìm mọi giải pháp làm cho vốn luôn hoạt động.
Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng và còn được bao gồm
tài sản hữu hình, tài sản vô hình.
Tài sản hữu hình là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, tài sản hữu
hình bao gồm hai bộ phận:
Một là, những tài sản hữu hình phục vụ trực tiếp sản xuất, như: nhà xưởng, máy móc,
thiết bị, công cụ, nguyên - nhiên vật liệu, bán thành phẩm... Về thực chất, những tài sản hữu
hình này chính là sự cụ thể hoá năng lực sản xuất của một đơn vị kinh tế cơ sở hay xét trên
phạm vi rộng lớn: toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tới hiệu quả sản xuất - kinh
doanh.
Hai là, những tài sản hữu hình phục vụ gián tiếp cho sản xuất, như: trụ sở văn
phòng, trang bị nội thất văn phòng, phương tiện đi lại, nhà ở...Mặc dù những tài sản hữu
hình này là cần thiết cho hoạt động sản xuất - kinh doanh nhưng chỉ tác động gián tiếp đến
việc gia tăng sản lượng đầu ra, đóng vai trò gián tiếp đối với hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Việc phân biệt rõ hai loại tài sản hữu hình như trên cho ta phương pháp luận đúng đắn
khi huy động, sử dụng chúng đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tài sản vô hình là những tài sản không tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, bao gồm
những sản phẩm trí tuệ, như: bằng phát minh, sáng chế, bản quyền; thương hiệu sản phẩm,
uy tín kinh doanh, vị trí kinh doanh; chi phí đào tạo nguồn nhân lực (kỷ năng lao động, tri
thức quản lý).v..v. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, giá trị tài sản vô hình càng trở nên
quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. Bởi lẽ, khi đã huy động được những tài sản vô hình vào
phát triển kinh tế, sử dụng chúng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận, thậm chí là siêu lợi nhuận cho
các nhà đầu tư. Chẳng hạn Nhật Bản là một điển hình thành công khi tạo bước đột phá trong
khai thác giá trị tài sản vô hình để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Người Nhật Bản không
ngần ngại trả giá cao cho những phát minh, sáng chế mới của các nhà khoa học trên khắp
các châu lục, đồng thời đem những tài sản - trí tuệ đó ứng dụng vào sản xuất - kinh doanh,
nhờ đó nền kinh tế Nhật Bản cất cánh thật ngoạn mục. Nếu như sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai, nền kinh tế Nhật bị kiệt quệ, lạm phát phi mã, thất nghiệp gia tăng...thì chỉ trong
vòng hai mươi năm, Nhật Bản đã trở thành một siêu cường kinh tế thế giới, chỉ đứng sau
Mỹ và liên minh châu Âu (EU), thành công đó có sự đống góp không nhỏ của việc khai thác
tốt yếu tố vô hình - sản phẩm trí tuệ của loài người vào phát triển kinh tế.
Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều hình thái cụ thể,
nhưng hình thái giá trị - tiền tệ với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hoá nhất trong nền
kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà
còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích
cuối cùng của việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận
động với quy mô ngày càng được mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận động của
vốn trên thị trường tuân thủ quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Song, với khả
năng nhận thức, con người có thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách quan, tạo ra những kênh
huy động vốn một cách có hiệu quả, đáp ứng mục đích sản xuất - kinh doanh của mình.
Vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả, cung ứng vốn đầy đủ và kịp thời cho nền kinh tế là một
trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, trong mỗi
quyết định đầu tư cụ thể lại đòi hỏi không chỉ lượng vốn đủ lớn mà còn yêu cầu một hay
nhiều loại vốn khác nhau. Thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu phân chia và xác định rõ từng loại
vốn để có giải pháp huy động, sử dụng và quản lý vốn có hiệu quả.
Tuỳ theo cách tiếp cận và đặc điểm vận động của vốn trong quá trình đầu tư sản xuất
- kinh doanh, mà có các tiêu thức phân loại vốn khác nhau.
- Căn cứ vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại, đó là: vốn trong
nước và vốn ngoài nước.
- Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn, có vốn cố định và vốn lưu động.
- Căn cứ vào quan hệ sở hữu trong quá trình sử dụng vốn, người ta phân chia vốn
hoạt động thành hai loại: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn vay (huy động từ bên ngoài).
+ Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một hoặc nhiều chủ thể
sở hữu. Chẳng hạn, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước được hình thành trên cơ sở
ngân sách nhà nước cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần được hình
thành thông qua huy động vốn góp của cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm
hữu hạn được hình thành thông qua vốn góp của các thành viên...
+ Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm tăng lượng vốn của
chủ thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá trình sản xuất. Vốn vay có thể
huy động từ vay trong nước và vay ngoài nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vay
vốn ngoài nước để phát triển kinh tế không phải là công việc quá khó đối với các nước đang
phát triển. Song, vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng vốn vay ngoài nước đảm bảo có
hiệu quả vẫn còn là vấn đề nan giải đối với các nước nghèo và kém phát triển.
- Căn cứ vào thời gian tham gia của vốn vào quá trình hoạt động gồm có vốn ngắn
hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn.
Ngoài ra, còn có một số cách thức phân loại khác như: vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu
tư gián tiếp; vốn với mục đích sinh lời trực tiếp và vốn để đảm nhiệm các dịch vụ công
cộng; vốn thực (tư bản thật), vốn ảo (tư bản giả)...
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta những quan niệm
khác nhau về vốn, song, nhận thức về vốn, xét về bản chất là thống nhất. Việc phân chia
vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - vốn
là hình thái giá trị, là thứ hàng hoá đặc biệt, có mối liên hệ mật thiết với thời gian. Cùng
với việc hiểu rõ bản chất của vốn còn nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và rất phức
tạp của vốn trong nền kinh tế thị trường. Đó là những căn cứ khoa học giúp các chủ thể
kinh doanh nắm bắt kịp thời và chủ động trong kế hoạch huy động, quản lý, sử dụng các
loại vốn, đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Các hình thức thu hút vốn huy động
1.1.2.1. Khái niệm về vốn huy động
Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, các nguồn vốn
khác.
- Vốn tự có: Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt, vì vậy quan niệm vốn tự
có của ngân hàng cũng có điểm khác với các tổ chức kinh doanh khác. Có thể hiểu vốn tự
có của ngân hàng theo hai cách tiếp cận sau:
Về khía cạnh kinh tế, vốn của ngân hàng là vốn do các chủ sở hữu đóng góp và vốn
được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận được giữ