Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến 2010, Đảng ta chỉ rõ
“Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả
trong toàn xã hội ,tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.”.Tạo vốn và sử
dụng vốn là vấn đề đang được chính phủ, các doanh nghiệp quan tâm.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, cùng với nó là những khó khăn do thiếu vốn,
công nghệ lạc hậu, sản phẩm tạo ra chưa có sức cạnh tranh mạnh.
Vậy tạo vốn như thế nào? Đó là câu hỏi bức thiết vơí hầu hết các doanh nghiệp
nước ta hiện nay. Do đó tìm lời giải về vốn cho doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự
và thiết thực.
Qua nghiên cứu , em quyết định chọn đề tài "Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh
nghiệp”.
32 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2051 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vốn và vấn đề tạo vốn
của Doanh nghiệp
Lời nói đầu
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến 2010, Đảng ta chỉ rõ
“Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả
trong toàn xã hội ,tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân...”.Tạo vốn và sử
dụng vốn là vấn đề đang được chính phủ, các doanh nghiệp quan tâm.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, cùng với nó là những khó khăn do thiếu vốn,
công nghệ lạc hậu, sản phẩm tạo ra chưa có sức cạnh tranh mạnh.
Vậy tạo vốn như thế nào? Đó là câu hỏi bức thiết vơí hầu hết các doanh nghiệp
nước ta hiện nay. Do đó tìm lời giải về vốn cho doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự
và thiết thực.
Qua nghiên cứu , em quyết định chọn đề tài "Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh
nghiệp”.
I.Vốn – một trong những điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường
1.Khái quát về vốn
Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm về vốn,mỗi một quan điểm có một cách tiếp
cận riêng.
Trong phạm vi doanh nghiệp ,vốn là tất cả các tài sản bỏ ra lúc đầu cùng với các nhân
tố khác như lao động, tài nguyên thiên nhiên tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh
hằm mục tiêu sinh lợi. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh
nghiệp đang nắm giữ
Trong nền kinh tế thị trường : vốn được quan niệm là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và
trong quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp, là một loại hành hoá để sản xuất ra
hàng hoá khác lớn hơn chính nó về mặt giá trị
Như vậy vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng phải là tiền được sử dụng vào mục
tiêu sinh lợi.Trong quá trình vận động vốn tiền tệ ra đi rồi trở về điểm xuất phát của nó và
lớn lên sau một chu kỳ vận động.
Vốn có những đặc trưng cơ bản sau:
- Thứ nhất vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định ,có nghĩa là vốn được
biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp
- Thứ hai: vốn phải hoạt động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp
- Thứ ba: vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định ,có như vậy
mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh
- Thứ tư: vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định ,không thể có đồng vốn vô chủ
và không ai quản lý
-Thứ năm: vốn được quan niệm như một hàng hoá đặc biệt có thể mua
bán quyền sử dụng vốn trên thị trường
Trên thực tế có 3 phương thức vận động của vốn tiền tệ
- T-T’: phương thức vận động của vốn trong những tổ chức tài chính trung gian ( T’
>T)
- T-H-T’: phương thức vận động của vốn trong doanh nghiệp thương mại T-H-SX-
T’-H’: phương thức vận động của vốn trong doanh nghiệp sản xuất
2.Phân loại vốn :
Mỗi góc độ tiếp cận khác nhau có cách phân loại khác nhau
-Dựa vào phương thức chu chuyển vốn người ta phân thành vốn cố định và vốn lưu
động
+ Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định nó chuyển
dần dần từng phần trong những chu kỳ sản xuất . Vốn cố định đóng vai trò quan trọng
trong sản xuất kinh doanh , đạc biệt là với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất .Hiện nay, những quy định vốn cố định phải có thời gian sử dụng ít nhất là một năm
và có giá trị trên năm triệu
+Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm
bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục
-Dựa vào thời gian chu chuyển người ta chia thành ba loại :
+Vốn ngắn hạn: thời hạn dưới 1 năm
+Vốn trung hạn: thời hạn từ 1 đến 5 năm
+Vốn dài hạn : thời hạn trên 5 năm
-Dựa vào nội dung vật chất vốn được phân thành hai loại
+Vốn thực :là toàn bộ hàng hoá phục vụ cho sản xuất và dịch vụ khác như :máy
móc thiết bị nhà xưởng đường xá... phần vốn này phản ánh hình thái vật thể của vốn ,nó
tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Vốn tài chính: biểu hiện dưới hình thái tiền tệ,chứng khoán và các giấy tờ khác
dùng cho việc mua tài sản máy móc, thiết bị và những nguyên nhiên vật liệu khác. Phần
vốn này phản ánh phương diện tài chính của vốn, nó tham gia gián tiếp vào sản xuất kinh
doanh thông qua công tác đầu tư.
-Dựa vào hình thái biểu hiện vốn được chia làm hai loại :
+Vốn hữu hình: bao gồm tiền, các giấy tờ có giá trị và tài sản biểu hiện bằng vật khác
như:đất đai, đường xá, nhà xưởng....
+Vốn vô hình: bao gồm giá trị những tài sản vô hình như: vị trí cửa hàng , uy tín kinh
doanh, nhãn, bản quyền, sáng chế phát minh...
3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Với những áp lực của xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và sự phát triển như vũ
bão của khoa học công nghệ, vốn trở thành vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp ,nếu
muốn tồn tại và đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Về mặt pháp lý :
-Đối với DNNN: dnnn khi muốn thành lập ,điều kiện đàu tiên là doanh nghiệp phải
có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (lượng
vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại dnnn). Khi đó địa vị pháp lý của doanh
nghiệp mới được xác lập. Ngược lại việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện
được. Theo điều 4-chương II Quy chế quản lý tài chính và hoạch toán kinh tế đối với
DNNN, nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh vốn điều lệ của doanh nghiệp không đạt
điều kiện mà phá luật quy định, tức là thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành
nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập
doanh nghiệp đó phải bổ xung vốn điều lệ cho doanh nghiệp , hoặc giảm ngành nghề kinh
doanh cho doanh nghiệp hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động như : phá sản, giải thể ,
sát nhập .
Đối với các loại hình doanh nghiệp khác: doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề mà
pháp luật, pháp lệnh hoặc nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định hoặc chính chỉ hành
nghề, thì doanh nghiệp đó chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn hoặc chứng chỉ
hành nghề của pháp luật(điều 11 Luật doanh nghiệp).
Vậy vốn được xem là điều kiện tiên quyết đảm bảo tư cách pháp nhân của doanh nghiệp
trước pháp luật
-Về mặt kinh tế vốn có bốn vai trò
+Thứ nhất vốn là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành được các hoạt động sản
xuất kinh doanh.Khi khởi nghiệp doanh nghiệp cần phải có một số vốn ban đầu nhất định
để đầu tư mua cho hoạt động kinh doanh như chi phí thành lập, xây dựng trụ sở , mua máy
móc trang thiết bị, dự trữ nguyên liệu, thuê lao động...Đối với một số ngành như ngân
hàng bảo hiểm...Nhà nước còn quy định số vốn tối thiểu phải có khi thành lập doanh
nghiệp (vốn pháp định).
+ Thứ hai vốn tạo điều kiện để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
một cách liên tục và có hiệu quả.Trước hết, để duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh
bình thường, số vốn đầu tư ban đầu phải được quay vòng liên tục và phải được bảo toàn
sau mỗi chu kỳ luân chuyển.Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể liên tục mua sắm tư liệu
sản xuất cho chu kỳ sau. Khi doanh nghiệp đã phát triển, quy mô mở rộng, nhu cầu đầu tư
chiều sâu sẽ xuất hiện. Doanh nghiệp cần cải tạo, đưa công nghệ tiên tiến vào quá trình sản
xuất, thực hiện hiện đại hoá sán xuất, nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài, đào tạo và nâng
cao trình độ cho cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật,cải tiến mẫu mã,nâng cao chất
lượng sản phẩm...Để làm được những điều đó, doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định
+ Tiềm lực vốn mạnh sẽ giúp doanh nghiệp khang định được chỗ đứng trên thị
trường, tạo lợi thế trong cạnh tranh.Vốn lớn không những cho phép doanh nghiệp đầu tư
theo chiềh sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn là sức mạnh để doanh nghiệp
chiếm lĩnh thị trường thông qua các chiến lược maketting, đưa sản phẩm đến người tiêu
dùng.Việc mở rộng thị phần tiêu thụ và đa dạng hoá hoạt đọng kinh doanh cũng góp phần
nâng cao uy tín của doanh nghiệp và tạo thuận lội cho doanh nghiệp khi muốn huy động
thêm vốn.Trong điều kiện Việt Nam đang cố gắng hội nhập vào nền kinh tế thế giới như
hiện nay, cạnh tranh sẽ diễn ra ngày càng quyết liệt và doanh nghiệp nhỏ yếu về vốn sẽ
gặp phải nguy cơ bị đào thải ngày càng lớn
+ Cuối cùng vốn là công cụ phản ánh đánh giá sự vận động của tài sản, giám sát quá
trình sản xuất kinh doanh.Thông qua các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả sử dụng vốn, ta có thể
biết được hiệu quả của việc quản lý hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp làm ăn giỏi
là một doanh nghiệp không những bảo toàn mà còn ngày càng phát triển,nâng cao số vốn
của mình.Vốn kinh doanh cũng được trở thành một trong những thước đo quy mô của
doanh nghiệp (Tổng số vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp là một trong những thước
tiêu chuẩn được sử dụng để xếp hạng doanh nghiệp nhà nước) .
Thực tế cho thấy ,để cung và cầu về vốn gặp nhau trên thị trường ,cả hai phía người
cung ứng vốn và người có nhu cầu về vốn đều phải cố gắng tìm đến với nhau ,đồng thời
cần có sự tích cực của nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho các luồng vốn đến
đúng địa chỉ người nhận .Về phía doanh nghiệp, trước hết phải dựa vào năng lực của bản
thân để tự mình tìm kiếm và khai thác có hiệu quả các nguồn vốn hiện đang tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau trên thị trường .
II . Các nguồn tạo vốn cho doanh nghiệp.
Hiện nay có rất nhiều hình thức tạo vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra
là
Các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường, đề ra các phương án sản xuất kinh
doanh phù hợp,từ đó xây dựng kế hoạch hoạt động tạo vốn , chỉ ra những ưu nhược điểm
của mỗi hình thức tạo vốn cũng như khả năng vận dụng sao cho có hiệu quả
Các hình thức tạo vốn chủ yếu trong các doanh nghiệp hiện nay:
1/Tạo vốn trong nội bộ doanh nghiệp :
Là hình thức tự cấp vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích vừa để duy trì vừa để phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh với hai nguồn sử dụng chính .
Một là: Nguồn khấu hao tài sản cố định :
Trong quá trình sử dụng tài sản cố định do chịu tác động của nhiều tác nhân làm cho
tài sản cố định bị hao mòn dưới hai hình thức hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình . Hao
mòn hữu hình là sự giảm dần về mặt giá trị sử dụng của tài sản cố định do chúng đựơc sử
dụng trong quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc do tác động của yếu tố tự nhiên gây ra .
Hao mòn vô hình là sự sụt giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định do sự xuất hiện
những tài sản cố định cùng loại hoặc tương tự nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc
hiện đại hơn.
Nguyên nhân dẫn đến hao mòn vô hình không phải do tài sản cố định được sử dụng
nhiều ít trong sản xuất kinh doanh mà là do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật gây nên.
Để tài sản cố định có thể hoạt động một cách liên tục và khi không dùng được nữa có
thể có đủ vốn để tái tạo lại nó . Doanh nghiệp phải trích lập quĩ khấu hao bằng sự tích luỹ
của số tiền khấu hao.Đó là số tiền biểu hiện qua giá trị bộ phận tài sản cố định bị hao mòn
chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới được định kỳ tính vào giá thành sản phẩm.
Để tận dụng hiệu quả nguồn vốn này phương pháp trích khấu hao cơ bản phải đảm
bảo được sự cân đối giữa mức chi phí tính vào giá thành sản phẩm và nhu cầu hoàn vốn để
đổi mới tài sản . Các tài sản không cần dùng hoặc hiệu quả sử dụng không cao cần được
nhanh chóng thanh lý,nhượng bán để thu hồi vốn và giảm chi phí bảo quản sửa chữa . Để
làm được việc này, doanh nghiệp phải tiến hành phân loại và đánh giá chính xác giá trị tài
sản ,so sánh cân nhắc cẩn thận giữa hai phương án : Giữ tài sản để sử dụng và bán tài sản
để đi thuê khi cần dùng , từ đó chọn ra phương án có lợi nhất cho doanh nghiệp (có tính
đến cả lợi ích trước mắt và lâu dài ).
Thứ hai là tích luỹ lãi đầu tư : Đây là phần lợi nhuận không chia để lại doanh nghiệp
nhằm mục đích đầu tư và phát triển sản xuất. Nguồn vốn này tạo cho doanh nghiệp thế
hoàn toàn chủ động , giảm sự phụ thuộc vào nhà cung ứng cũng như giảm gánh nặng nợ
cho doanh nghiệp , giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỉ lệ Nợ / Vốn, do
đó làm tăng uy tín vị thế của doanh nghiệp trên thương trường làm tăng khả năng cạnh
tranh .
Để nâng cao mức lợi nhuận dành để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải chú ý nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh ,tức là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Muốn vậy, doanh
nghiệp phải tự đánh giá lại mình về khả năng cạnh tranh ,nguồn lực của doanh nghiệp, từ
đó xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp.
Doanh nghiệp phải hình thành ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ để giúp DN kịp thời
phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong hoạt động.Khi có lãi doanh nghiệp cần dành
một tỷ lệ lợi nhuận thích đáng cho mục đích đầu tư mở rộng sản xuất tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm ...
Hiện nay hình thức huy động vốn trong nội bộ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tài chính của các doanh nghiệp Mỹ(nhất là hình thức lợi nhuận tái đầu tư vì nó là phương
thức huy động vốn hiệu quả bằng nội lực của chính doanh nghiệp)
Còn đối với doanh nghiệp Việt Nam thì sao? Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã
nhận thức được tầm quan trọng của nguồn huy động nội bộ ,tuy nhiên do nhiều nguyên
nhân, đặc biệt là trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, khi nhu cầu về vốn ngày càng lớn ,
trong khi nội lực còn yếu, để chiến thắng cạnh tranh không chỉ với các doanh nghiệp trong
nước mà cả các doanh nghiệp nước ngoài , các doanh nghiệp việt nam không thể chỉ trông
chờ vảo nguồn vốn nội bộ mà quan trọng hơn là nguồn vốn vay ngoài.
2 . Nguồn tạo vốn từ bên ngoài .
Cùng với nền kinh tế mở các phương thức tạo vốn cho doanh nghiệp không ngừng
được mở rộng như vay ngân hàng thương mại, tín dụng thương mại từ nhà cung cấp ,tín
dụng thuê mua ,huy động vốn thông qua liên doanh liên kết, phát hành cổ phiếu trái phiếu
...
Trong phạm vi đề án này, em chỉ xin đi sâu nghiên cứu các hình thức tạo vốn sau :
Vốn vay các ngân hàng thương mại .
Trong nền kinh tế thị trường, nói đến vốn không ai có thể phủ nhận vai trò của các
ngân hàng thương mại. Các NHTM huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và tiến
hành cho vay, do dó các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp
với thời hạn có thể từ vài ngày đến vài năm với lượng vốn theo nhu cầu kinh doanh của
doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng được tài trợ theo nhiều phương thức :
Một là: cho vay theo từng món, theo phương thức này khi phát sinh nhu cầu bổ xung
vốn với lượng nhất định và thời hạn xác định, và doanh nghiệp phải làm đơn xin vay. Nếu
được ngân hàng chấp nhận doanh nghiệp sẽ ký khế ước nhận nợ và sử dụng tiền vay. Việc
trả nợ được thực hiện theo các kỳ hạn nợ đã thoả thuận hoặc trả một lần vào ngày đáo hạn .
Hai là : Cho vay luân chuyển , phương thức này được áp dụng khi doanh nghiệp có
nhu cầu vốn bổ xung thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh và đáp ứng những điều
kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra .Theo phương thức này, doanh nghiệp và ngân hàng
thoả thuận một hạn mức tín dụng cho một thời hạn nhất định (ví dụ 1 năm). Hạn mức tín
dụng được xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa
mà ngân hàng có thể chấp nhận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thoả thuận, doanh nghiệp
có thể nhận tiền vay nhiều lần, nhưng tổng các món nợ sẽ không vượt quá hạn mức đã xác
định .
Việc thực hiện tín dụng ngân hàng phải dựa trên nguyên tắc ứng trước có bảo đảm
bằng tài sản hoặc bằng uy tín của doanh nghiệp. Riêng đối với khối doanh nghiệp nhà
nước, tạo lợi thế đẩy mạnh vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước đối với các nền
kinh tế, ngày 6/ 5/ 1997 chính phủ đã ra nghị quyết số 49 / CP về việc các NHTM quốc
doanh cho DNNN vay vốn mà không phải thế chấp tài sản .Nhưng sau một thời gian dài
được vay vốn tại các NHTM quốc doanh với những điều kiện ưu đãi các DNNN vẫn
không sử dụng vốn có hiệu quả và không phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Nhiều doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng hoà vốn hoặc thua lỗ nên khi nợ
đến hạn doanh nghiệp đã không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng .
Mặt khác, trong trường hợp DNNN còn nợ quá hạn và hoạt động kinh doanh thua lỗ
những khoản nợ quá hạn chưa được xử lý thì các NHTM quốc doanh vẫn cho doanh
nghiệp vay tiếp, nếu doanh nghiệp có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ chủ
quản (đối với doanh nghiệp TW) hoặc uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc TW (đối
với doanh nghiệp địa phương) chấp thuận . Lợi dụng quy định trên một số doanh nghiệp
nhà nước đã cấu kết với ngân hàng thương mại hoặc cố gắng “tô màu” phương án kinh
doanh để được tiếp tục vay vốn, cho dù nợ cũ chưa trả hết hoặc hoạt động sản xuất kinh
doanh thua lỗ .Điều này dẫn đến số dư nợ của các công ty này lên đến hàng nghìn tỷ đồng
(Minh phụng epxco...) làm phá sản, không chỉ các doanh nghiệp này mà cả NHTMQD đã
không thu hồi được vốn vay. Trong khi đó đối với các doanh nghiệp ở thành phần khác thủ
tục xét duyệt, cho vay vốn quá khắt khe.
Rút kinh nghiệm trước thực tế và để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế trong quan hệ vay vốn ngân hàng, nâng cao trách nhiệm của
DNNN trong việc sử dụng vốn vay ngân hàng, ngày 29 tháng 12 năm1999 Chính phủ đã
ban hành nghị định số 178 /1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
Theo đó, tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn quy định việc cho vay có bảo đảm bằng tài
sản, cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về quy định của mình. Trong trường
hợp tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ
thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này sẽ được chính phủ xử lý .
Ngày 31/8/2000 NHNNVN đã ban hành thông tư số 10/2000/TT/NHNN hướng dẫn chi
tiết việc thực hiên các nội dung trong nghị định 178
Cụ thể như sau :
Một là ,về đăng ký giao dịch đảm bảo tài sản là bất động sản, (trừ tàu bay, tàu biển),
các tổ chức tín dụng và khách hàng vay chưa thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm
cho đến khi các Bộ, ngành liên quan, các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW
thành lập cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và ban hành các văn bản hướng dẫn
cụ thể quy trình, thủ tục lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm; Đối với đăng ký giao dịch bảo
đảm tài sản là tàu bay và tầu biển, các tổ chức tín dụng và khách hàng vay thực hiện đăng
ký giao dịch bảo đảm tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, cơ quan đăng ký tàu biển
và thuyền viên khu vực theo quy định hiện hành của chính phủ, Bộ giao thông vận tải và
cục hàng không dân dụng Việt Nam, cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực
theo quy định hiện hành của chính phủ, Bộ giao thông vận tải và cục hàng không dân dụng
việt Nam .
Hai là, về cho vay không có bảo đảm đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài : Đối với doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng được điều kiện “
có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay “ nhưng
không thuộc diện yếu kém theo phương án sắp xếp ( cổ phần hoá giao bán ,khoán kinh
doanh cho thuê ... ) của chính phủ , của các bộ, ngành và địa phương, có dự án đầu tư,
phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả khắc phục được lỗ trong thời hạn nhất định và
có khả năng trả nợ vay, thì được các tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản phù hợp với các quy định khác tại mục 1 Chương IV Nghị định số
178/1999/NĐ - CP và Mục 1 Chương IV thông tư số06/2000/TT/NHHH1 ngày 4/4/2000
của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định nay; đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lỗ theo kế hoạch do mới đi vào hoạt động tại Việt
Nam chưa quá 3 năm nhưng xét thấy có khả năng thực hiện đúng kế hoạch lỗ dự kiến
trong dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì các tổ chức có thẩm
quyền xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản phù hợp với các quy định khác tại
Mục 1 Chương IV Ngh