Chín nhiệm vụ và giải pháp là (1) Đánh giá mức độ và tác động của
biến đổi khí hậu ở Việt Nam; (2) Xác định các giải pháp ứng phó với biến
đổi khí hậu; (3) Xây dựng chương trình khoa học công nghệ về biến đổi khí
hậu; (4) Tăng cường năng lực tổchức, thểchế, chính sách vềbiến đổi khí
hậu; (5) Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực; (6) Tăng cường
hợp tác quốc tế; (7) Tích hợp yếu tốbiến đổi khí hậu vào các chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, phát triển ngành và địa
phương; (8) Xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí
hậu; (9) Xây dựung và triển khai các dựán của Chương trình. 4 Xem đoạn
I.1 và I.2 trong Quyết định 158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008.
6 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Để triển khai có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Để triển khai có hiệu quả chương
trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu
GS TS Nguyễn Ngọc Trân
Ngày 02-12-2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 158/TTg
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu
(CTMTQG) với tổng kinh phí thực hiện ước tính 1965 tỷ đồng. Thủ tướng
trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện Chương trình, Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường làm Chủ nhiệm Chương trình. Bài
viết này tham gia một số ý kiến để triển khai Chương trình đạt hiệu quả.
I. Về các mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia
Chương trình mục tiêu quốc gia đề ra mục tiêu tổng quát 1 và tám mục tiêu
cụ thể 2. Tuy nhiên xem xét kỹ mục tiêu tổng quát chưa đủ độ bao quát, có
mục tiêu cụ thể đáng lý ra phải là mục tiêu tổng quát, nhiều mục tiêu cụ thể
thực ra là nhiệm vụ mà Chương trình cần triển khai . Tôi thiết nghĩ Chương
trình mục tiêu quốc gia có bốn mục tiêu chủ yếu đồng bộ với nhau :
Nhận thức về tác động của biến đổi khí hậu lên toàn bộ hệ thống các mối
quan hệ giữa khí quyển, sinh quyển, thủy quyển và thạch quyển của đất
nước vừa là xuất phát điểm vừa là mục tiêu của Chương trình mục tiêu
quốc gia.
Nhận thức này không chỉ trong cộng đồng mà còn trong cả hệ thống chính
trị, và trước tiên là trong bộ máy quản lý nhà nước. Có như vậy mới hiểu
tường tận và không bỏ sót các tác động, và mới có được sự phối hợp cần
thiết không khe hở trong ứng phó.
Từ nhận thức đó, mục tiêu tiếp theo của Chương trình mục tiêu quốc gia là
nhận diện được các thách thức phải vượt qua trong ngắn hạn và dài hạn,
trong các vùng sinh thái kinh tế khác nhau của đất nước, và các giải pháp
ứng phó thích hợp nhất.
Mục tiêu thứ ba là thực hiện (các) chương trình hành động để ứng phó trên
các lĩnh vực hành pháp, lập pháp, tư pháp, tại các vùng sinh thái kinh tế,
bằng nguồn nội lực và bằng nguồn lực vận động được từ bên ngoài.
Mục tiêu cuối cùng là vượt qua các thách thức đưa nền kinh tế Việt Nam
vào quỹ đạo thân thiện với môi trường và tham gia cùng cộng đồng các
quốc gia trên thế giới để giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ hành tinh xanh.
Xây dựng cơ sở dữ liệu (bản đồ, chuỗi số liệu, ảnh vệ tinh, ...) cơ bản, đặc
biệt về hải văn hiện đang rất thiếu, cho phép tính toán và dự báo các tác
động của biến đổi khí hậu và quy chế sử dụng chung các dữ liệu này là một
nhiệm vụ bức thiết và cũng là một mục tiêu của Chương trình mục tiêu
quốc gia.
II. Nhận thức toàn diện và toàn cầu, hành động cụ thể
Nhận thức về các tác động của biến đổi khí hậu cần toàn diện và toàn cầu,
nhưng cần được liên hệ đến từng địa bàn để hoạch định hành động cụ thể
phù hợp với bối cảnh và quy luật chung.
Có như vậy chương trình hành động của các bộ ngành mới gắn kết cặt chẽ
với chương trình hành động của các vùng, chương trình khoa học công
nghệ của Chương trình mục tiêu quốc gia mới có địa chỉ ứng dụng, đáp ứng
mong đợi của người dân và của các địa phương vào Chương trình.
Điều mà người dân muốn biết trước tiên, ngoài các khái niệm chung, là trên
địa bàn mà họ đang sinh sống, các tác động của biến đổi khí hậu mà họ sẽ
gặp là gì, và cần chuẩn bị ứng phó ra sao. Đáp ứng yêu cầu này sẽ phát huy
được tính tích cực và sáng tạo của người dân, từ cơ sở, trong ứng phó.
Ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, của
toàn xã hội của các cấp, các ngành là một quan điểm của Chương trình. Các
tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các đoàn thể quần chúng
được khuyến khích chủ động tham gia vào các hoạt động ứng phó với biến
đổi khí hậu, đặc biệt là lĩnh vực thông tin, giáo dục và truyền thông, là một
đặc điểm tích cực của Chương trình mục tiêu quốc gia . Chương trình dự
kiến chi 292 tỷ đồng cho việc nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn nhân
lực, trong đó 162 tỷ dành cho công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức
cộng đồng về biến đổi khí hậu. Vấn đề là triển khai như thế nào để đạt được
hiệu quả cao và bền vững nhất.
Các tác động của biến đổi khí hậu lên mỗi vùng sinh thái kinh tế, ngoài
những điểm chung, do các đặc thù địa l ý của vùng, có những đặc điểm
riêng không giống với các tác động lên các vùng sinh thái kinh tế khác.
Để công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức cộng đồng về biến đổi khí
hậu thấm sâu và nâng cao hiểu biết và tính chủ động của người dân và cán
bộ trên địa bàn, thiết nghĩ Ban Chỉ đạo quốc gia và Ban Chủ nhiệm Chương
trình mục tiêu quốc gia, ngoài việc họp để giới thiệu Chương trình, như đã
làm ở Hà Nội và ở Thành phố Hồ Chí Minh, cần tổ chức họp theo vùng (
Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng, Duyên hải bắc Trung Bộ,
Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, và đồng bằng sông
Cửu Long ) giới thiệu cụ thể các tác động của biến đổi khí hậu lên vùng,
các thách thức mà người dân trong vùng cần vượt qua và chương trình hành
động dự kiến bước đầu.
Làm tốt việc này là một bước quan trọng đặt việc triển khai Chương trình
mục tiêu quốc gia lên đúng đường ray.
III. Chắt lọc, sắp xếp các nhiệm vụ, bố trí nguồn lực đúng lúc và đủ
Chương trình mục tiêu quốc gia đề ra 9 nhiệm vụ và giải pháp 3, mỗi nhiệm
vụ được triển khai với các chỉ tiêu cụ thể trong giai đoạn khởi động ( đến
năm 2010 ) và trong giai đoạn triển khai ( đến năm 2015 ). Chưa có chỉ tiêu
cho giai đoạn phát triển ( sau 2015 ). Có hai nhận xét :
- Cách làm này rất lớp lang, quy củ nhưng cần xem xét thêm bởi lẽ các
nhiệm vụ không tách rời và không biệt lập với nhau.
- Tính rủi ro trong triển khai ra sao khi mà 50% kinh phí là vốn từ bên
ngoài, chỉ có 50% là vốn trong nước, trong đó có thể hoàn toàn chủ động
được là 40% ?
Từ thực tế này, thiết nghĩ cần : (a) chắt lọc và sắp xếp các nhiệm vụ theo
mức độ ưu tiên; (b) lên sơ đồ những nhiệm vụ nào cần làm trước, làm song
song, làm sau để bố trí nguồn lực thích hợp, đủ và đúng lúc. Việc làm này
không mâu thuẩn mà bổ sung cho quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo thực
hiện Chương trình có trọng tâm trọng điểm. Biến đổi khí hậu hiện nay trên
thế giới một phần không nhỏ là do hành vi của con người. Tính toán tác
động của biến đổi khí hậu lên môi trường và tìm cách ứng phó có hiệu quả
nhất là một bài toán của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ.
Do vậy Chương trình khoa học và công nghệ ( bao gồm khoa học xã hội )
có nhiệm vụ cung cấp kịp thời cơ sở cho Chương trình mục tiêu quốc gia.
Tôi rất đồng tình và cho rằng tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào các chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là một nhiệm vụ
hàng đầu của Chương trình mục tiêu quốc gia, đảm bảo các kết cấu hạ tầng
đầu tư trong những năm sắp tới từ vốn đầu tư toàn xã hội được sử dụng có
hiệu quả lâu bền.
IV. Yêu cầu và tư tưởng chỉ đạo việc ứng phó với biến đổi khí hậu và biển
dâng
Quyết định 158/2008/QĐ-TTg đề ra năm quan điểm và sáu nguyên tắc chỉ
đạo việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia. Những nội dung này rất
đúng và cần thiết 4.
Tổng kết từ nhiều địa bàn trên thế giới cho thấy có ba cách ứng phó với
mực nước biển dâng: bảo vệ ( Protection ), thích nghi ( Accommodation )
và rút lui ( Retreat ). Ba cách này đều áp dụng đối với các đối tượng: các
công trình kiên cố, sản xuất nông nghiệp, và các hệ sinh thái, đặc biệt các
hệ sinh thái ngập nước (wetland). Không có một cách ứng phó duy nhất cho
mọi đối tượng, ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi phương án biển dâng.
Ứng phó phải phù hợp với quy luật của tự nhiên, vì vậy ứng phó không thể
riêng lẽ từng tỉnh vì sẽ manh mún, kém hiệu quả, thậm chí còn mâu thuẩn,
cản trở, triệt tiêu nhau.
Yêu cầu đối với ứng phó là gìn giữ tối đa có thể được thành quả của lao
động quá khứ, sinh mạng, tài sản và đời sống của nhân dân. Đối với đồng
bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, yêu cầu còn liên quan đến vấn
đề an ninh lương thực quốc gia.
Chính vì thế, theo thiển ý của chúng tôi, cần bổ sung một tư tưởng chỉ đạo:
việc ứng phó là phải biến thách thức thành thời cơ để phát triển bền vững.
Từ tư tưởng chỉ đạo này mà đề ra các nhiệm vụ, khoa học và công nghệ nói
riêng, cần giải quyết trong bối cảnh mới. Về mặt quản lý nhà nước, thách
thức của biển dâng phải chăng chính là thời cơ thúc đẩy Nhà nước suy tính
sâu sắc và tích cực hơn việc quản lý kinh tế theo vùng lãnh thổ ?
V. Triển khai hợp tác quốc tế có hiệu quả
Lực lượng khoa học của chúng ta am tường về ứng phó với biến đổi khí
hậu còn mỏng. Thông tin, số liệu còn rất thiếu và cần được cập nhật và bổ
sung. Vì lẽ đó, hợp tác quốc tế có mục tiêu và hiệu quả là một công tác rất
quan trọng.
Mê-kông là một con sông quốc tế. Việt Nam là quốc gia cuối cùng ở hạ
lưu. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và biển dâng, bảo vệ quyền lợi quốc
gia đối với sử dụng nước sông Mêkông ở thượng nguồn đúng với quy định
của luật pháp quốc tế là một nhiệm vụ hàng đầu của Ủy ban quốc gia sông
Mê-kông. Các kết quả điều tra nghiên cứu cần thiết là một công cụ mạnh để
đàm phán, bảo vệ quyền lợi chính đáng của quốc gia.
Việt Nam đã tham gia Nghị định thư Kyoto, Công ước quốc tế về đa dạng
sinh học và những điều ước quốc tế khác có liên quan đến biến đổi khí hậu.
Vì vậy hợp tác quốc tế cần được triển khai vì sự phát triển bền vững của
quốc gia, của khu vực và của cả hành tinh./.
[1] Mục tiêu tổng quát là “đánh giá được mức độ tác động của biến đổi khí
hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong từng giai đoạn và xây
dựng được kế hoạch hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả với
biến đổi khí hậu cho từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự
phát triển bền vững của đất nước (...)”
[2]Tám mục tiêu cụ thể là: a) Đánh giá được mức độ biến đổi của khí hậu
Việt Nam do biến đổi khí hậu toàn cầu và mức độ tác động của biến đổi khí
hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương; b) Xác định được các giải
pháp ứng phó với biến đổi khí hậu; c) Tăng cường các hoạt động khoa học
công nghệ nhằm xác lập cơ sở khoa học cho các giải pháp ứng phó với biến
đổi khí hậu; d) Củng cố và tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách
về ứng phó với biến đổi khí hậu; đ) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm tham
gia của cộng đồng và phát triển nguồn nhân lực; e) Tăng cường hợp tác
quốc tế nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của quốc tế trong ứng phó với
biến đổi khí hậu; g) Tích hợp vấn đề biến đổi khí hậu vào các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa
phương; h) Xây dựng và triển khai các kế hoạch hành động của các Bộ,
ngành và địa phương ứng phó với biến đổi khí hậu; triển khai các dự án,
trước tiên là các dự án thí điểm.
[3] Chín nhiệm vụ và giải pháp là (1) Đánh giá mức độ và tác động của
biến đổi khí hậu ở Việt Nam; (2) Xác định các giải pháp ứng phó với biến
đổi khí hậu; (3) Xây dựng chương trình khoa học công nghệ về biến đổi khí
hậu; (4) Tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về biến đổi khí
hậu; (5) Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực; (6) Tăng cường
hợp tác quốc tế; (7) Tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào các chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa
phương; (8) Xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí
hậu; (9) Xây dựung và triển khai các dự án của Chương trình. 4 Xem đoạn
I.1 và I.2 trong Quyết định 158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008.