Công cuộc đổi mới kinh tế để này của nước ta trong những năm qua đã và kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ sở quan trọng ban đầu để tiến tới một thị trường tài chính đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững.
Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Bên cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của dân cư trong nước và nước ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng
27 trang |
Chia sẻ: diunt88 | Lượt xem: 3570 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Giải pháp để phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHầN Mở ĐầU
Công cuộc đổi mới kinh tế để này của nước ta trong những năm qua đã và kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ sở quan trọng ban đầu để tiến tới một thị trường tài chính đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững.
Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Bên cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của dân cư trong nước và nước ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ỏ nước ta đã chỉ ra rằng để đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH- HĐH đất nước thì việc xây dựng TTCK ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết như trong Nghị quyết đại hội Đảng VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “phải xây dựng thị trường vốn từng bước hình thành TTCK”. Việt Nam hiện nay tín dụng thương mại về cổ phiếu mới ra đời TTCK chính thức hoạt động từ tháng 7/ 2000 chính là sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế những kiến thức về TTCK- một vấn đề bức xúc đang được rất nhiều các ngành các cấp, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và sinh viên quan tâm. Thị trường vốn nói chung và TTCK nói riêng là một thực thể phức tạp và là hình thức phát triển cao của kinh tế đối với nước ta. Em mạnh dạn chọn đề tài: ‘’Giải pháp để phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt nam’’, bài viết đã song nhưng không thể nào tránh được những hạn chế và sai sót, rất mong sự quan tâm góp ý, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn.
Sinh viên: Nông văn Lực
Lớp: K41- 01.04phần i: Lý luận chung
I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán.
1. Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán.
a. Khái niệm.
Khái niệm về thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú cho đến nay chưa có một định nghĩa chung cho “thị trường chứng khoán (TTCK)”.
Theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì thị trường chứng khoán có tiếng Latinh là Btursa, có nghĩa là “cái ví đựng tiền! Còn gọi là “Sở giao dịch chứng khoán”. Đó là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển (The Stock Exchange- dịch ra tiếng Việt là thị trường chứng khoán, theo chữ Hán là chứng khoán giao dịch sở, Sở là nơi chốn, còn giao dịch là hoạt động mua bán trao đổi).
Theo “Longman Dictionary of Business English-1985” thì TTCK được định nghĩa như sau: “An organized market Where Securities are Bought Sold undiel fixed rule”. Dịch ra tiếng Việt đó là một thị trường có tổ chức là nơi chứng khoán được mua bán tuân theo những qui tắc đã ấn định. Định nghĩa này đã đưa ra một định nghĩa nêu lên được các loại chứng khoán (Securities) đó là cổ phiếu (Share) và trái phiếu (Bond). Chứng khoán thực ra là từ ghép của hai từ đồng nghĩa. Chứng và khoán đều có nghĩa là bằng cứ (Evidence). Trong tiếng Anh người ta dùng từ Secueitier có nghĩa Writen Evidence of Ownership. Từ những phân tích trên có thể hiểu một cách căn bản “chứng khoán” là bằng chứng giấy trắng mực đen về quyền sở hữu.
Cùng với sự phát triển đổi mới của thị trường vốn, thị trường tiền tệ, sự đa dạng hoá trong đời sống kinh tế. Thuật ngữ thị trường chứng khoán đã thoát ly định nghĩa ban đầu và có thêm những nội dung mới.
Dù có rất nhiều định nghĩa về “TTCK” nhưng mỗi định nghĩa chỉ cung cấp một khái niệm tổng quát về một vấn đề nào đó. Vì vậy sẽ thật là thiếu sót khi 0ta nghiên cứu về “TTCK” mà chỉ đứng trên góc độ một định nghĩa nào đó mà muốn hiểu được vấn đề thì phải nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển lâu dài của nó.
b. Lịch sử hình thành phát triển “TTCK”
Lịch sử loài người đã ra đời và tồn tại hàng ngàn năm nay. Trong đó lịch sử phát triển xã hội loài người đã trải qua các hình thái xã hội khác nhau từ thấp đến cao. ứng với mỗi hình thái xã hội khác nhau thì có một lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác nhau tương ứng với chúng xã hội muốn tồn tại thì phải lao động sản xuất ra hàng hoá, của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người.
Trong đó thị trường chứng khoán là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường chứng khoán nguyên thuỷ đã tồn tại hàng trăm năm nay. Vào khoảng giữa thế kỷ XI ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán Cafe để thương lượng việc mua bán, trao đổi các loại hàng hoá (nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động ...). Điểm đặc biệt là tại các cuộc thương lượng này, các thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản, hay bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau, hợp đồng mua bán, trao đổi. Không biết do sự phát triển của các thương gia hay hiệu quả của kiểu “thương lượng” này mà số lượng người tham gia ngày càng đông lên. Đến cuối thời Trung cổ, phiên chợ riêng này trở thành một thị trường và khoảng cách các phiên chợ ngày càng rút ngắn. Những qui ước trao đổi dần dần được tu bổ thành các qui tắc có giá trị bắt buộc đối với người tham gia. Từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu được hình thành.
Đến 1986 ở một số nước, các giá trị động sản đã lần lượt được yết giá trên hệ thống vi tính các (yết giá liên tục) như vậy việc yết giá cổ phiếu, trái phiếu, không còn được tập trung nữa, không được giao dịch dưới dạng giao miệng. Các nhà giao dịch sẽ truyền lệnh cho công ty chứng khoán của mình thông qua điểm cuối mạng vi tính.
Năm 1991, hệ thống RELIT đã tiêu chuẩn hoá tiến trình thanh toán tiền và giao dịch chứng khoán. Sau khi đã giao dịch thương lượng trên thị trường.
+ Thành lập các thị trường biến tướng: 1986 ở Pháp lập thị trường Matif, 1987 thị trường Monep. Các thị trường này lập ra cho các nhà quản lý hồ sơ chứng khoán phòng ngừa các rủi ro liên quan đến biến động về cổ phiếu, tỉ lệ lãi suất, tỉ giá hối đoái. Và thị trường này cũng có mục đích tăng vốn khả duy trên thị trường giao ngay qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Và đây cũng là thị trường thực sự trong thời đại mới.
Sự hình thành của “TTCK” trên thế giới vào thế kỉ 15 và cùng với thăng trầm của lịch sử nó vẫn tồn tại đến ngày nay. Sau nhiều năm chờ đợi và chuẩn bị vào ngày 11.7.1998. Chính phủ nước ta đã ký nghị định 18/CP ban hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Và ngày đó cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị trường.
Với quá trình phát triển lâu dài của mình, TTCK đã cho thấy vị trí không thể thiếu của mình trong nền kinh tế thị trường. Nó có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. TTCK là kênh bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Nó là yếu tố hạ tầng quan trọng nhất một công cụ đem lại nhiều lợi ích. Vai trò của TTCK thì rất là nhiều nhưng nhìn chung lại thì nó có các vai trò chủ yếu sau:
a) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái niệm về giao lưu vốn và cũng không có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ đạo tập trung của Nhà nước. Cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp đã làm tê liệt chức năng của đồng tiền phá vỡ quan hệ cung cầu và qui luật giá trị. Nền kinh tế phát triển què quặt.
Khi chuyển sang chơ chế thị trường doanh nghiệp chủ động trong sản xuất kinh doanh các vấn đề đều do thị trường quyết định. Tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất hiện, phản ánh qui luật cung cầu và qui lụât giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: người cần vốn và người có vốn.
Người ta ví thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng bộ phận dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ, tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế quốc dân. Đồng thời nó tạo ra cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả bằng cách vừa sản xuất vừa mua bán chứng khoán. TTCK giúp Nhà nước giải quyết các vấn đề cơ bản như ngân sách, hạ tầng cơ sở, trực tiếp cải thiện đời sống của người tiêu dùng.
b. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh và có hiệu quả hơn.
Khả năng linh động tức thì của chứng phiếu là một yếu tố rất cần đối với nhà đầu tư khi đầu tư vốn.
Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối ưu. Khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui mô doanh nghiệp có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Phương thức này còn gọi là “vay vốn qua phát hành”. Doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ. Những người này mong muốn đầu tư tiền nhàn rỗi vào giá trị động sản. Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để người dân ghi mua, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp tăng vốn tự có bằng cách góp vốn, cổ phiếu. Khi phát trái phiếu doanh nghiệp đã tăng nguồn vốn vay dân.
Ngược lại khi doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như một tài sản kinh doanh.
Mặt khác TTCK còn giúp doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu việc sát nhập mở rộng hợp đồng kinh doanh của doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua TTCK.
Mặc dù các chứng khoán được mua bán trên thị trường như mua bán tài sản doanh nghiệp, nhưng vốn khả dụng của nền kinh tế luôn được phát triển và duy trì. Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản nó cũng không mất đi nó sẽ bám vào tay một cổ đông khác và cổ đông này sẽ duy trì và phát triển các HDDN.
c. Công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai.
Thị trường chứng khoán biến động rất phức tạp và nhanh chóng. Để lựa chọn phương án đầu tư thích hợp người ta phải có phương pháp xác định cho từng tình hình cụ thể với tham vọng theo dõi sự biến động chung của giá cả của chứng khoán người ta đã cố gắng tìm các biện pháp xác định khác nhau. Đó là lí do ra đời chỉ số thị trường (market index) các chỉ số cung cấp thông tin về thị trường nói chung.
Sự hình thành thị trường chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó. Trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thị trường cổ phiếu cao hay thấp biểu hiện mức độ đầu tư tài chính. Trạng thái kinh tế của doanh nghiệp đặc biệt là mức độ cổ tức mà các cổ đông được hưởng và giá thặng dư của cổ phiếu thể hiện ở khả năng mang lại lợi tức và thu nhập cho doanh nghiệp cho cổ đông của mình. Thuờng những doanh nghiệp làm ăn tốt, thì có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và chỉ có doanh nghiệp có quản lý tốt mới ăn lên làm ra. Tuy nhiên có những cổ phiếu cổ tức khiêm tốn vẫn có giá trị thị trường cao. Vì đó là doanh nghiệp có nhiều triển vọng trong tương lai.
Nhìn chung thị trường chứng khoán còn vốn vào các chức năng khác như chức năng TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát, TTCK đảm bảo tính thanh khoản cho số tiền tiết kiệm đầu tư dài hạn TTCK tạo thói quen đầu tư... nhưng ba chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt, dù để ý ở tầm vi mô hay vĩ mô.
3. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK
a. Nguyên tắc hoạt động.
Sự hoạt động của TTCK là rất phức tạp, nhưng nhìn chung nó hoạt động tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc trung gian thị trường chứng khoán hoạt động không phải trực tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện mà do người môi giới trung gian thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian nhằm bảo đảm các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Trong đó có môi giới trung gian và thương gia chứng khoán.
* Nguyên tắc đấu giá: mọi việc mua bán chứng khoán đều phải tuân thủ theo nguyên tắc đấu giá. Vì vậy không phải bạn muốn mua là mua được ngay mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hiện nay có ba hình thức đấu giá cơ bản.
+ Đấu giá trực tiếp: các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau. Thông qua một trung gian (chuyên gia chứng khoán tại quầy giao dịch trong sân).
+ Đấu giá gián tiếp: là hình thức các môi giới không trực tiếp gặp nhau.
+ Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống Computer nối mạng giữa máy chủ và các cơ sở giao dịch với hệ máy và công ty chủ máy khoán thành viên.
* Nguyên tắc công khai: là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán ra công chúng đều được công khai, như là các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính. Kết quả kinh doanh của các công ty có chứng khoán đăng ký niêm yết trên thị trường, số lượng và giá cả từng loại chứng khoán đã mua bán đều được thông báo công khai trên thị trường và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
b) Điều kiện cho sự hình thành TTCK
Không phải bất kì lúc nào ta muốn thành lập TTCK là có thể thành lập được ngay. Mà muốn thành lập TTCK và hoạt động có hiệu quả thì phải đảm bảo một số những điều kiện nhất định.
* Điều kiện về cổ phần hoá có nền kinh tế ổn định rồi vấn đề tạo nguồn hàng cho thị trường. Gắn liền với lĩnh vực này là chương trình cổ phần hoá và việc phát hành trái phiếu công ty cũng như trái phiếu chính phủ.
Để tạo môi trường cho cổ phần hoá chúng ta phải: xây dựng cơ sở dữ liệu để phân loại các doanh nghiệp Nhà nước, trên cơ sở đó quản lý và áp dụng hình thức cổ phần hoá cho từng loại hình. Xử lý vấn đề nợ tồn đọng, trên cơ sở nâng cao tài sản có của doanh nghiệp tạo điều kiện cho quá trình cổ phần.
Xây dựng hệ thống kế toán và đánh giá giá trị doanh nghiệp.
* Điều kiện pháp lý: thị trường chứng khoán liên quan đến vấn đề sở hữu, quan hệ vay mượn và quan hệ kinh tế giữa chủ thể và toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Bởi vậy có rất nhiều văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của TTCK. Do nhu cầu về vốn cao nên trong giai đoạn đầu TTCK hoạt động sẽ không có tổ chức nếu không có hệ thống pháp lí điều chỉnh kịp thời. Vì vậy xây dựng hệ thống pháp lý là điều kiện quan trọng tạo hành lang pháp lý cho TTCK phát triển là tiêu đề duy trì lòng tin và bảo vệ các nhà đầu tư.
Có nhiều văn bản pháp lí được xây dựng.
+ Luật /pháp lệnh nghị định về CK và TTCK.
+ Luật /nghị định về lưu giữ CK.
+ Luật/ nghị định về Uỷ ban CK quốc gia.
+ Quy định về niêm yết, giao dịch, quĩ đầu tư...
Những văn bản gián tiếp tác động đến TTCK:
+ Luật dân sự
+ Luật thương mại.
+ Luật Thuế.
+ Luật doanh nghiệp.
+ Luật đầu tư.
* Điều kiện kĩ thuật và tổ chức.
Để giúp cho hoạt động trên thị trường diễn ra trôi chảy, hiệu quả cần xây dựng một hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin, hệ thống thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động hoá thích hợp đáp ứng được khối lượng giao dịch ban đầu, mặt khác tính được xu hướng mở rộng của thị trường và khả năng có thể nâng cấp trên cơ sở có sẵn. Bên cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK cần phát triển các tổ chức hoạt động trên thị trường.
+ Các công ty bảo hành phát hành CK.
+ Các công ty môi giới CK.
+ Các công ty giao dịch CK cho chính mình.
+ Các quĩ đầu tư.
+ tổ chức tư vấn.
+ Nhân viên giao dịch C/I.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Đồng thời phát triển các công ty kiểm toán trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu thẩm định cả hai phía các tổ chức CK các tổ chức KDCK.
* Điều kiện về con người.
Nhân tố con người đóng vị trí hết sức quan trọng đối với sự thành công của TTCK. Vì đây là một ngành mới, rủi ro cao nên phải có đội ngũ cán bộ nhanh nhậy, tinh thông nghiệp vụ và có tư cách. Vì vậy cần đào tạo cán bộ cho TTCK, cần thực hiện trước khi thành lập TTCK khoảng ba năm các đối tượng cán bộ cần đào tạo.
+ Cán bộ quản lý giám sát thị trường, công tác tại ủy ban chứng khoán.
+ Cán bộ quản lý, điều hành tại sở giao dịch CK và tại các hệ thống phụ trợ.
+ Nhân viên KDCK tại các công ty KDCK.
4. ưu và nhược điểm của TTCK.
a. Những ưu điểm.
+ Thị trường chứng khoán khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Nhờ TTCK mà đại đa số dân chúng đều có thể tha gia được và công cuộc đầu tư ít ỏi của mình làm cho vốn đầu tư sẽ sinh lời và lại làm cho kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư trong dân chúng.
+ Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn. Trước đây các đơn vị kinh doanh phụ thuộc lớn vào ngân này để có vốn kinh doanh. Ngày nay các đơn vị kinh doanh cũng như Nhà nước huy động vốn trực tiếp từ các nguồn tiết kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu.
+ Thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội về mặt kinh tế Nhà nước vay tiền của dân là thiết thực và lành mạnh. Vì chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành thêm tiền vào lưu thông. Tạo ra sức ép lạm phát thông qua TTCK việc phát hành trái phiếu hết sức thuận lợi.
+ TTCK là công cụ kiểm soát thu hút vốn đầu tư nước ngoài. TTCK là công cụ cho phép kiểm soát vốn ĐTNN tốt nhất vì nó hoạt động công khai.
+ TTCK lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước. Một khi việc đầu tư vào doanh nghiệp là có lợi cho tầng lớp dân từ thì qua TTCK các khoản tiết kiệm sẵn sàng từ bỏ bất động hoá, chấp nhận vào quá trình đầu tư.
+ Thị trường CK là điều kiện cho quá trình cổ phần hoá: cổ phần hoá là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Đòi hỏi phải có TTCK, TTCK là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự pháp luật, phù hợp với tâm lý người đầu tư.
+ TTCK kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn: Nhờ TTCK các doanh nghiệp mới có thể đem bán phát hành cổ phiếu; trái phiếu của họ mà ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận cổ phiếu, trái phiếu hợp lệ: như kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh... dân chúng cũng mua cổ phiếu của công ty thành đạt. Vì vậy sẽ kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn.
b. Những nhược điểm.
Như đã nêu trên TTCK có vai trò tích cực trong huy động vốn song nó chỉ phát huy khi hoạt động tốt, đảm bảo lành mạnh cần thiết.
Nhưng bên cạnh đó TTCK có nhiều mặt tiêu cực cần tránh để hạn chế thấp nhất những rủi ro tạo điều kiện cho nó phát huy hết vai trò của nó.
+ Yếu tố đầu cơ: yếu tố này làm ảnh hưởng dây truyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá cao giả tạo, điều này có thể dẫn đến sự khan hiếm hay thừa thãi làm cho giá cổ phiếu tăng giảm đột biến.
+ Mua bán nội gián: Đây là hiện tượng một cá nhân nào đó lợi dụng việc làm thu được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó nhằm thu lợi cho mình, gây ảnh hưởng giá cổ phiếu trên thị trường đó.
+ Mua bán cổ phiếu ngoài TTCK luật về TTCK cũng đã hạn chế các nhà môi giới mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán, vì nếu để việc này xảy ra sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không hề nào biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của đơn vị đó. Mọi sự mua bán ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác.
PHầN II: Thực trạng thị trường chứng khoán ở VIệT NAM
I/ Tính tất yếu của việc thành lập TTCK ở Việt Nam
1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam và chủ trương đổi mới cơ chế quản lý theo cơ chế thị trường
Trong mấy chục năm qua khi nền kinh tế của nước ta đang ở trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế phát triển rất chậm, có thời gian rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, cùng với nạn lạm phát phi mã, cơ cấu kinh tế mất cân đối lớn và đặc biệt là những khó khăn to lớn trong đời sống của nhân dân.
Từ những yếu kém của cơ chế cũ đến năm 1986 Đảng và Nhà nước đã chuyển sang cơ chế mới : cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Sau hơn 15 năm tồn tại và phát triển theo cơ chế này nền kinh tế đã có những biến đổi đáng mừng và đem lại một số thành