Đo lường thu nhập của một quốc gia

Khi bạn tốt nghiệp và bắt đầu đi tìm việc làm, thì phần lớn kinh nghiệm mà bạn tích luỹ được là nhờ điều kiện kinh tếhiện tại. Trong một sốnăm, các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế mởrộng sản xuất hàng hóa và dịch vụ, việc làm tăng và bạn dễdàng tìm được việc làm. Trong một sốnăm khác, các doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất, việc làm giảm và bạn mất nhiều thời gian mới tìm được việc làm tốt. Không có gì đáng ngạc nhiên là tất cảsinh viên tốt nghiệp đại học đều muốn gia nhập lực lượng lao động vào năm hoạt động kinh tếmởrộng, chứkhông phải khi nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy thóai.

pdf14 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường thu nhập của một quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 1 CHƯƠNG 10 ĐO LƯỜNG THU NHẬP CỦA MỘT QUỐC GIA Khi bạn tốt nghiệp và bắt đầu đi tìm việc làm, thì phần lớn kinh nghiệm mà bạn tích luỹ được là nhờ điều kiện kinh tế hiện tại. Trong một số năm, các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế mở rộng sản xuất hàng hóa và dịch vụ, việc làm tăng và bạn dễ dàng tìm được việc làm. Trong một số năm khác, các doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất, việc làm giảm và bạn mất nhiều thời gian mới tìm được việc làm tốt. Không có gì đáng ngạc nhiên là tất cả sinh viên tốt nghiệp đại học đều muốn gia nhập lực lượng lao động vào năm hoạt động kinh tế mở rộng, chứ không phải khi nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy thóai. Do điều kiện của toàn nền kinh tế ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả chúng ta, nên những thay đổi trong điều kiện kinh tế thường được thông báo rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại chúng. Trên thực tế, rất hiếm khi chúng ta cầm một tờ báo lên mà không nhìn thấy số liệu thống kê mới về nền kinh tế. Số liệu thống kê có thể phản ánh tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế (GDP), tốc độ tăng giá bình quân (lạm phát), phần trăm lực lượng lao động không có việc làm (thất nghiệp), tổng mức chi tiêu tại các cửa hàng (doanh số bán lẻ), hoặc sự mất cân bằng của hoạt động thương mại giữa Mỹ và các nước khác trên thế giới (thâm hụt thương mại). Tất cả những số liệu thống kê này đều là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Thay vì đề cập đến một hộ gia đình hoặc một doanh nghiệp riêng lẻ, chúng cho ta biết điều gì đó về toàn bộ nền kinh tế. Như bạn có thể nhớ lại từ chương 2, kinh tế học được chia thành 2 phân ngành là kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Kinh tế vi mô là bộ môn nghiên cứu về việc các hộ gia đình và doanh nghiệp riêng lẻ đưa ra quyết định và tương tác với nhau như thế nào trên các thị trường cụ thể. Kinh tế vĩ mô là bộ môn nghiên cứu về nền kinh tế với tư cách một tổng thể. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô là lý giải những biến động kinh tế đồng thời tác động tới các hộ gia đình, doanh nghiệp và thị trường. Kinh tế vĩ mô nêu ra nhiều câu hỏi rất khác nhau: Tại sao thu nhập bình quân cao ở một số nước, trong khi lại thấp ở những nước khác? Tại sao giá cả tăng nhanh trong một số thời kỳ, nhưng lại ổn định hơn ở những thời kỳ khác? Tại sao sản lượng và việc làm tăng trong một số năm, nhưng lại giảm trong những năm khác? Chính phủ có thể làm gì để thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của thu nhập, cắt giảm lạm phát và ổn định việc làm? Những câu hỏi này mang bản chất kinh tế vĩ mô, bởi vì chúng liên quan đến quá trình vận hành của toàn bộ nền kinh tế. Do nền kinh tế với tư cách một tổng thể chẳng qua chỉ là tập hợp của rất nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp tương tác với nhau trên nhiều thị trường, nên kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có mối liên hệ cực kỳ chặt chẽ với nhau. Ví dụ, các công cụ cơ bản của cung và cầu đóng vai trò trung tâm trong phân tích kinh tế vĩ mô, cũng như trong phân tích kinh tế vi mô. Song việc nghiên cứu nền kinh tế với tư cách một tổng thể cũng đặt ra những thách thức mới và hấp dẫn. Trong chương này và chương tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về một vài số liệu mà các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách thường sử dụng để theo dõi sự vận hành của toàn nền kinh tế. Những số liệu này phản ánh những biến động kinh tế mà các nhà kinh tế vĩ mô tìm NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 2 cách lý giải. Chương này xem xét tổng sản phẩm trong nước, gọi tắt là GDP, chỉ tiêu phản ánh về tổng thu nhập của một quốc gia. GDP là số liệu thống kê kinh tế thường thấy nhất, bởi vì nó được coi là chỉ tiêu tốt nhất về phúc lợi kinh tế của xã hội. THU NHẬP VÀ CHI TIÊU CỦA NỀN KINH TẾ Nếu phải đánh giá xem một người có hoạt động kinh tế tốt không, có thể trước tiên bạn nhìn vào thu nhập của anh ta. Một người có thu nhập cao dễ dàng mua được những hàng hóa thiết yếu và sang trọng cho cuộc sống. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những người có thu nhập cao được hưởng thụ mức sống cao - nhà ở sang trọng hơn, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, những chiếc xe hơi sành điệu hơn và nhiều kỳ nghỉ sang trọng hơn, và vân vân. Lô gích tương tự cũng áp dụng cho nền kinh tế của một quốc gia. Khi đánh giá xem nền kinh tế nào đó có hoạt động tốt không, dĩ nhiên người ta thường nhìn vào tổng thu nhập mà mọi người trong nền kinh tế kiếm được. Đó chính là nhiệm vụ của tổng sản phẩm trong nước (GDP). GDP cùng một lúc phản ánh hai sự việc: tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế và tổng chi tiêu để mua sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. Lý do làm GDP phản ánh được cả tổng thu nhập và tổng chi tiêu là vì hai đại lượng này thực ra chỉ là một. Đối với nền kinh tế với tư cách một tổng thể, thu nhập phải bằng chi tiêu. Tại sao điều này lại đúng? Lý do làm cho thu nhập của nền kinh tế bằng chi tiêu là mọi giao dịch đều có hai bên: bên mua và bên bán. Mọi khoản chi tiêu của người mua nào đó đều là thu nhập của người bán khác. Ví dụ, giả sử Karen trả Doug 100 đô la để cắt cỏ cho cô. Trong trường hợp này, Doug chính là người bán dịch vụ, còn Karen là người mua. Doug kiếm được 100 đô la và Karen chi tiêu 100 đô la. Do vậy, giao dịch này đóng góp vào tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế một lượng như nhau. Bất kể tính theo tổng thu nhập hay tổng chi tiêu, GDP đều tăng thêm 100 đô la. Các Doanh nghiệp Các hộ gia đình Thị trường hàng hoá và dịch vụ Thị trường các nhân tố sản xuất Đầu vào sản xuất Lao động, đất đai và tư bản Mua hàng hoá và dịch vụ Bán hàng hoá và dịch vụ Doanh thu (= GDP) Chi tiêu (= GDP) Thu nhập (= GDP) Tiền lương, tiền thuế, và lợi nhuận (= GDP) NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 3 Hình 1. Biểu đồ vòng chu chuyển. Các hộ gia đình mua hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp, còn các doanh nghiệp sử dụng doanh thu bán hàng để thanh toán tiền lương cho công nhân, tiền thuê cho chủ đất và lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp. GDP bằng tổng số tiền mà các hộ gia đình chi ra trên thị trường hàng hóa và dịch vụ. Nó cũng bằng tổng tiền lương, tiền thuê và lợi nhuận mà các doanh nghiệp thanh toán trên thị trường các nhân tố sản xuất. Một cách khác để nhận thấy sự bằng nhau giữa thu nhập và chi tiêu là sử dụng biểu đồ vòng chu chuyển trong hình 1. (Bạn có thể nhớ lại biểu đồ vòng chu chuyển trong chương 2). Biểu đồ này mô tả tất cả các giao dịch giữa hộ gia đình và doanh nghiệp trong nền kinh tế giản đơn. Trong nền kinh tế đó, các hộ gia đình mua hàng hóa và dịch vụ từ doanh nghiệp; các khoản chi tiêu này đi qua thị trường hàng hóa và dịch vụ. Sau đó các doanh nghiệp sử dụng tiền nhận được từ việc bán hàng hóa và dịch vụ để trả tiền lương cho công nhân, tiền thuê cho chủ đất và lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp; các khoản thu nhập này chảy qua thị trường các nhân tố sản xuất. Như vậy, tiền liên tục chảy từ khu vực hộ gia đình sang khu vực doanh nghiệp, sau đó quay trở lại khu vực hộ gia đình. Chúng ta có thể tính GDP cho nền kinh tế này theo hai cách: cộng tất cả các khoản chi tiêu của các hộ gia đình lại với nhau hoặc cộng các khoản thu nhập (tiền lương, tiền thuê và lợi nhuận) mà các doanh nghiệp thanh toán. Bởi vì mọi khoản chi tiêu trong nền kinh tế cuối cùng đều trở thành thu nhập của ai đó, nên GDP là như nhau, bất kể nó được tính theo cách nào. Tất nhiên, nền kinh tế trong thực tế phức tạp hơn nhiều so với nền kinh tế được minh họa trong hình 1. Cụ thể, các hộ gia đình không chi tiêu hết thu nhập của mình. Họ nộp một phần thu nhập cho chính phủ dưới dạng thuế, cũng như tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập để sử dụng trong tương lai. Ngoài ra, các hộ gia đình không mua tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Một số hàng hóa và dịch vụ được chính phủ mua, còn một số khác được các doanh nghiệp mua, vì họ dự kiến trong tương lại sẽ sử dụng chúng vào việc sản xuất ra sản phẩm của riêng họ. Tuy nhiên, bất kể hộ gia đình, chính phủ, hay doanh nghiệp mua một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó, thì giao dịch đó vẫn có bên mua và bên bán. Do vậy, khi xem xét nền kinh tế với tư cách một tổng thể thì chi tiêu và thu nhập là luôn luôn bằng nhau. Kiểm tra nhanh: Tổng sản phẩm trong nước phản ánh hai sự việc gì? Làm thế nào nó có thể phản ánh hai sự việc cùng một lúc? TÍNH TOÁN TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC Giờ đây, sau khi đã thảo luận khái quát ý nghĩa của tổng sản phẩm trong nước, chúng ta hãy tìm hiểu xem cụ thể chỉ tiêu thống kê này được tính toán như thế nào. Sau đây là định nghĩa về GDP: • Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước, trong một thời kỳ nhất định. Định nghĩa này xem ra có vẻ khá đơn giản. Song trong thực tế, có rất nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh khi tính toán GDP của nền kinh tế. Do vậy, chúng ta hãy xem xét cẩn thận từng cụm từ trong định nghĩa này. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 4 "GDP là giá trị thị trường..." Có lẽ bạn đã từng nghe câu châm ngôn "Bạn không thể so sánh táo với cam." Nhưng GDP lại làm đúng như vậy. GDP cộng rất nhiều loại sản phẩm thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị của hoạt động kinh tế. Để làm được điều này, nó phải sử dụng giá thị trường. Do giá thị trường biểu thị số tiền mà mọi người sẵn sàng chi trả cho các hàng hóa khác nhau, nên nó phản ánh giá trị của những hàng hóa này. Nếu giá của một quả táo bằng hai lần giá của một quả cam, thì một quả táo đóng góp vào GDP gấp hai lần giá trị đóng góp của một quả cam. "của tất cả..." GDP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ. Nó bao gồm tất cả các hàng hóa được sản xuất ra trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường. GDP tính toán giá thị trường không chỉ của táo và cam, mà còn của lê, nho, sách, phim ảnh, dịch vụ cắt tóc, chăm sóc y tế, và vân vân. GDP còn bao gồm cả giá trị thị trường của dịch vụ nhà ở do khối lượng nhà ở hiện có của nền kinh tế cung cấp. Đối với những căn nhà cho thuê, chúng ta dễ dàng tính được giá trị này - tiền thuê nhà đúng bằng chi tiêu của người thuê nhà và thu nhập của chủ nhà. Tuy nhiên, có nhiều người sinh sống trong chính các căn nhà của họ và do vậy không phải trả tiền thuê nhà. Chính phủ hạch toán những ngôi nhà do chủ sở hữu sử dụng vào GDP bằng cách ước tính giá trị cho thuê của chúng. Nghĩa là, GDP được tính dựa trên giả định cho rằng người chủ sở hữu trả tiền thuê nhà cho chính họ, do vậy tiền thuê nhà nằm trong cả chi tiêu và thu nhập của anh ta. Tuy nhiên, có một số sản phẩm mà GDP bỏ sót do việc tính toán chúng quá khó khăn. GDP không tính những sản phẩm được sản xuất và bán ra trong nền kinh tế ngầm, ví dụ như dược phẩm bất hợp pháp. Nó cũng không tính được những sản phẩm được sản xuất và tiêu dùng trong gia đình và do vậy không bao giờ được đưa ra thị trường. Những loại rau quả mua tại các cửa hàng tạp phẩm là một phần của GDP, song rau quả trồng trong vườn của bạn lại không nằm trong đó. Những thiếu sót này của GDP đôi khi có thể dẫn đến những kết quả kỳ quặc. Ví dụ, khi Karen trả tiền thuê Doug cắt cỏ cho cô ta, giao dịch này là một phần của GDP. Nếu Karen cưới Doug, thì tình hình sẽ thay đổi. Mặc dù Doug vẫn tiếp tục chăm sóc bãi cỏ cho Karen, nhưng giá trị của hoạt động cắt cỏ giờ đây đã bị đưa ra khỏi GDP, bởi vì dịch vụ của Doug không còn được bán trên thị trường nữa. Do vậy, khi Karen và Doug cưới nhau, GDP giảm. "cuối cùng..." Nếu công ty International Paper sản xuất giấy, sau đó giấy được công ty Hallmark sử dụng để làm thiếp chúc mừng, thì giấy được gọi là hàng hóa trung gian, còn thiếp chúc mừng được gọi là hàng hóa cuối cùng. GDP chỉ bao gồm giá trị của những hàng hóa cuối cùng. Lý do là giá trị của những hàng hóa trung gian đã được tính vào trong giá cả của hàng háo cuối cùng. Việc cộng giá trị thị trường của giấy với giá trị thị trường của thiếp sẽ dẫn tới sự tính trùng. Nghĩa là, giá trị của giấy được tính hai lần (tính sai). Trường hợp ngoại lệ quan trọng đối với nguyên tắc trên nảy sinh khi hàng hóa trung gian được sản xuất và, thay vì được sử dụng, nó được đưa vào hàng tồn kho của doanh nghiệp để sử dụng hoặc bán trong tương lai. Trong trường hợp đó, hàng hóa trung gian được tạm thời coi là "cuối NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 5 cùng" và giá trị của nó dưới dạng đầu tư vào hàng tồn kho được tính vào GDP. Sau đó, khi mức tồn kho hàng hóa trung gian này được sử dụng hoặc bán, thì đầu tư vào hàng tồn kho của doanh nghiệp sẽ là âm, và GDP trong thời kỳ sau phải giảm một lượng tương ứng. "hàng hóa và dịch vụ..." GDP bao gồm cả những hàng hóa hữu hình (thực phẩm, quần áo, xe hơi...) và những dịch vụ vô hình (cắt tóc, lau nhà, khám bệnh). Khi bạn mua chiếc đĩa CD được thực hiện bởi một nhóm nhạc mà bạn yêu thích ghi âm, thì điều này có nghĩa là bạn mua một hàng hóa và giá mua nằm trong GDP. Khi bạn trả tiền để nghe một buổi hoà nhạc cũng của nhóm nhạc đó, thì có nghĩa là bạn mua một dịch vụ và giá vé cũng nằm trong GDP. "được sản xuất ra..." GDP bao gồm mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kỳ hiện tại. Nó không bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hóa được sản xuất ra trong quá khứ. Khi công ty General Motors sản xuất và bán chiếc xe hơi mới, thì giá trị của chiếc xe hơi đó được tính vào GDP. Khi người nào đó bán chiếc xe hơi đã qua sử dụng cho người khác, thì giá trị của chiếc xe hơi đã qua sử dụng đó không nằm trong GDP. "trong phạm vi một nước..." GDP tính toán giá trị sản xuất trong phạm vi địa lý của một nước. Khi một công dân Canađa làm việc tạm thời ở Mỹ, thì giá trị sản xuất của anh ta là bộ phận cấu thành GDP của Mỹ. Khi một công dân Mỹ sở hữu nhà máy ở Haiti, thì giá trị sản xuất tại nhà máy của anh ta sẽ không nằm trong GDP của Mỹ (nó là một phần trong GDP của Haiti). Do vậy, các sản phẩm được đưa vào GDP của một quốc gia khi chúng được sản xuất ra trên lãnh thổ quốc gia đó, bất kể nhà sản xuất có quốc tịch nước nào. "...trong một thời kỳ nhất định." GDP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể. Khoảng thời gian này thường là một năm hoặc một quý (3 tháng). GDP phản ánh lượng thu nhập và chi tiêu trong thời kỳ đó. Khi chính phủ thông báo GDP cho một quý, thì nó thường biểu thị GDP theo năm. Điều này hàm ý con số GDP hàng quý được thông báo bằng tổng thu nhập hoặc chi tiêu trong quý nhân với 4. Chính phủ sử dụng quy ước này để đảm bảo rằng con số GDP hàng quý và hàng năm có thể so sánh với nhau một cách dễ dàng hơn. Ngoài ra, khi chính phủ thông báo GDP hàng quý, thì số liệu này đã được điều chỉnh bằng một thủ thuật thống kê gọi là điều chỉnh thời vụ. Những số liệu chưa được điều chỉnh cho thấy một cách rõ ràng rằng nền kinh tế sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn trong một số thời điểm so với một số thời điểm khác trong năm. (Như bạn có thể dự đoán, mùa mua sắm vào dịp lễ Giáng sinh vào tháng 12 là thời kỳ cao điểm.) Khi theo dõi diễn biến của nền kinh tế, các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách thường muốn bỏ qua những biến động thời vụ lặp lại thường xuyên này. Do vậy, các nhà thống kê của chính phủ điều chỉnh số liệu quý để loại trừ chu kỳ thời vụ. Số liệu GDP được thông báo trong các bản tin luôn được điều chỉnh để loại trừ tính thời vụ. Bây giờ hãy nhắc lại định nghĩa về GDP: NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 6 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước trong một thời kỳ nhất định. Cần thấy rõ rằng GDP là một chỉ tiêu phức tạp về giá trị của hoạt động kinh tế. Trong những khóa học nâng cao về kinh tế vĩ mô, bạn sẽ học được nhiều về tính phức tạp nảy sinh trong quá trình tính toán nó. Song giờ đây bạn đã có thể thấy rằng mỗi một cụm từ trong định nghĩa này có rất nhiều ý nghĩa. Kiểm tra nhanh: Việc nào đóng góp vào GDP nhiều hơn - sản xuất của một kg bánh hamburger hay sản xuất của một kg trứng cá muối? Tại sao? PHẦN ĐỌC THÊM Các chỉ tiêu khác về thu nhập Cứ sau ba tháng, Bộ Thương mại Mỹ lại tính GDP một lần. Đồng thời, họ cũng tính các chi tiêu thu nhập khác nhằm đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh hơn về những gì đang xảy ra trong nền kinh tế. Những chỉ tiêu này khác với GDP ở chỗ chúng loại bỏ hoặc tính thêm những khoản mục thu nhập nào đó. Sau đây là mô tả tóm tắt về những chỉ tiêu thu nhập này, được sắp xếp theo thứ tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất. ¾ Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng thu nhập mà công dân của một quốc gia tạo ra. Nó khác với GDP ở chỗ nó cộng thêm các khoản thu nhập mà dân cư trong nước tạo ra ở nước ngoài và trừ đi các khoản thu nhập mà người nước ngoài tạo ra ở trong nước. Ví dụ, khi một công dân Canađa làm việc tạm thời ở Mỹ, giá trị sản xuất của anh ta là một phần cấu thành GDP của Mỹ, nhưng nó lại không thuộc GNP của Mỹ. (Nó thuộc GNP của Canađa.) Đối với hầu hết các nước, trong đó có Mỹ, công dân trong nước tạo ra hầu hết giá trị sản xuất trong nước, nên GDP và GNP có giá trị gần bằng nhau. ¾ Sản phẩm quốc dân ròng (NNP) là tổng thu nhập của công dân một nước (GNP) trừ đi khấu hao. Khấu hao là các khoản hao mòn trang thiết bị và nhà xưởng của nền kinh tế, ví dụ những chiếc xe tải bị xuống cấp, bóng đèn đường bị cháy. Trong hệ thống tài khoản quốc gia do Bộ Thương mại đảm nhận, khấu hao được gọi là khoản "tiêu hao tư bản cố định." ¾ Thu nhập quốc dân là tổng thu nhập mà công dân một nước tạo ra trong quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Nó khác với sản phẩm quốc dân ròng ở chỗ không bao gồm các khoản thuế gián thu (ví dụ thuế doanh thu), nhưng bao gồm cả các khoản trợ cấp kinh doanh. NNP và thu nhập quốc dân còn khác nhau ở khoản "sai số thống kê" phát sinh từ việc thu thập và xử lý số liệu. ¾ Thu nhập cá nhân là thu nhập mà các hộ gia đình và doanh nghiệp cá thể nhận được. Không giống như thu nhập quốc dân, nó không bao gồm lợi nhuận để lại công ty, tức khoản thu nhập các công ty tạo ra nhưng không trả cho chủ sở hữu. Nó cũng không bao gồm các khoản thuế thu nhập công ty và đóng góp bảo hiểm xã hội (chủ yếu là các loại thuế bảo hiểm xã hội). Ngoài ra, thu nhập cá nhân còn bao gồm thu nhập từ lãi suất mà các hộ gia đình nhận được từ các khoản cho chính phủ vay và thu nhập mà các hộ gia NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 7 đình nhận được từ các chương trình trợ cấp của chính phủ, ví dụ như chưong trình Phúc lợi và bảo hiểm xã hội. ¾ Thu nhập khả dụng là thu nhập mà các hộ gia đình và doanh nghiệp cá thể còn lại sau khi hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho chính phủ. Nó bằng thu nhập cá nhân trừ thuế thu nhập cá nhân và các khoản thanh toán ngoài thuế khác (ví dụ lệ phí giao thông). Mặc dù các chỉ tiêu thu nhập có thể khác nhau về chi tiết, nhưng chúng hầu như luôn kể cho chúng ta cùng một câu chuyện về các điều kiện kinh tế. Khi GDP tăng trưởng nhanh, thì các chỉ tiêu thu nhập khác cũng tăng nhanh. Và khi GDP giảm, thì các chỉ tiêu thu nhập khác cũng giảm theo. Đối với việc theo dõi những biến động của toàn nền kinh tế, thì việc chúng ta sử dụng chỉ tiêu nào không có ý nghĩa quan trọng. CÁC THÀNH TỐ CỦA GDP Chi tiêu trong nền kinh tế có nhiều dạng. Tại một thời điểm nào đó, gia đình Smith có thể đang ăn trưa tại nhà hàng Burger King; công ty General Motors có thể đang xây dựng một nhà máy sản xuất xe hơi; Hải quân Mỹ có thể đang mua một chiếc tàu ngầm; Hãng hàng không British Airways có thể đang mua một chiếc máy bay của hãng Boeing. GDP bao gồm tất cả các dạng chi tiêu về những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước. Để hiểu được cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế, các nhà kinh tế thường quan tâm nghiên cứu cơ cấu