Đô thị thông minh xu hướng trong tương lai tại Việt Nam

Tóm tắt Hiện nay, các đô thị đang hướng tới phát triển bền vững. Do đó, xu hướng phát triển đô thị thông minh đang trở thành xu hướng chung và trở thành mối quan tâm đặc biệt của mỗi quốc gia. Trong tương lai tất cả các thành phố phải sử dụng các hệ thống thông minh để cải thiện chất lượng cuộc sống và mặt khác để phát triển bền vững. Các hệ thống thông minh giúp các hoạt động hàng ngày trở nên dễ dàng, hiệu quả hơn hỗ trợ thực sự cho sự phát triển thành phố bền vững. Bài viết này phân tích và xác định các yếu tố chính của các thành phố thông minh trong tương lai. Sau đó, dựa vào kinh nghiệm các nước, cũng như xu thế phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam trong những năm qua, tác giả phân tích thực trạng đô thị Việt Nam cũng như thực trạng thực hiện phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam, trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số giải pháp thúc đẩy phát triển đô thị thông minh cho Việt Nam.

pdf13 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đô thị thông minh xu hướng trong tương lai tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
82 ĐÔ THỊ THÔNG MINH XU HƯỚNG TRONG TƯƠNG LAI TẠI VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Hiện nay, các đô thị đang hướng tới phát triển bền vững. Do đó, xu hướng phát triển đô thị thông minh đang trở thành xu hướng chung và trở thành mối quan tâm đặc biệt của mỗi quốc gia. Trong tương lai tất cả các thành phố phải sử dụng các hệ thống thông minh để cải thiện chất lượng cuộc sống và mặt khác để phát triển bền vững. Các hệ thống thông minh giúp các hoạt động hàng ngày trở nên dễ dàng, hiệu quả hơn hỗ trợ thực sự cho sự phát triển thành phố bền vững. Bài viết này phân tích và xác định các yếu tố chính của các thành phố thông minh trong tương lai. Sau đó, dựa vào kinh nghiệm các nước, cũng như xu thế phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam trong những năm qua, tác giả phân tích thực trạng đô thị Việt Nam cũng như thực trạng thực hiện phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam, trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số giải pháp thúc đẩy phát triển đô thị thông minh cho Việt Nam. Từ khóa: Đô thị thông minh, hệ thống thông minh 1. Giới thiệu Trong thập niên vừa qua, cùng với quá trình đô thị hóa, số lượng người dân tập trung sinh sống và làm việc tại các thành phố lớn ngày càng tăng. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc 2008 và tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế 2010 cho biết hơn nửa số dân sống ở các đô thị và tốc độ đô thị hóa ngày càng gia tăng trong các năm tiếp theo. Trong đó Liên minh châu Âu, mật độ dân số và đô thị hóa cao là phổ biến ở hầu hết các quốc gia, nơi có hơn 70% dân số sống ở các thành phố. Con số này được dự báo sẽ tiếp tục tăng lên 80% vào năm 2030, mặc dù dân số EU dự kiến sẽ không tăng trong những thập kỷ tiếp theo (IEA, 2008c). Việc gia tăng dân số sẽ ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của các thành phố bởi tình trạng ô nhiễm môi trường, thiếu thốn các nguồn lực như: nước sạch, đất đai, không gian và năng lượng... Với các công nghệ và phương pháp quản lý truyền thống, việc giải quyết các khó khăn nêu trên sẽ gặp nhiều hạn chế. Trong bối cảnh đó, một số nước phát triển đã bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu về các công nghệ cốt lõi và công nghệ thông tin để xây dựng giải pháp “kiểm soát” các vấn đề khó khăn nảy sinh trong quá trình phát triển của một đô thị hiện đại. Đô thị thông minh ra đời sẽ giải quyết tổng hòa các mối quan hệ kinh tế, xã hội và kỹ thuật. Đô thị thông minh cũng sẽ dần dần thay 83 đổi cạnh tranh đô thị truyền thống sang miền thông minh hơn như thu hút các nhà đầu tư, du khách, người dân bằng các sáng tạo và ứng dụng công nghệ thông minh trong điều hành và quản lý (Malecki, 2013). Bài viết sau đây sẽ trình bày khái quát về hệ thống thông minh, đô thị thông minh, kinh nghiệm xây dựng đô thị thông minh trên thế giới và thực trạng phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam. Dựa vào nghiên cứu điển hình các nước, tác giả sẽ đề xuất giải pháp cụ thể để xây dựng đô thị thông minh tại Việt Nam trong những năm tiếp theo. 2. Khái quát về hệ thống thông minh và đô thị thông minh 2.1. Hệ thống thông minh Hệ thống thông minh được xem như yếu tố hỗ trợ thực sự cho sự phát triển đô thị và cũng sẽ tạo ra sự phát triển bền vững của các thành phố trong tương lai. Hình 1 cho biết hệ thống lõi của đô thị thông minh gồm: Giáo dục, y tế, giao thông và hệ thống quản lý công. Hình 1. Hệ thống lõi của đô thị thông minh Cải thiện chất lượng và hiệu suất của các đô thị đòi hỏi tất cả các các bên liên quan phải thực thi hệ thống thông minh một cách hiệu quả. Sự phát triển của thành phố phụ thuộc vào việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên không tái tạo dựa trên giải pháp thông minh và sử dụng hiệu quả các giải pháp thông minh đó để tạo ra nguồn tài nguyên tái tạo. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều các quốc gia có cơ sở hạ tầng tốt nhưng chưa sử dụng hết giá trị thực của chúng. Theo S. Dirks, C. Gurdgiev and M. Keelin (2010) khoảng 65% dân số thế giới sẽ là đô thị đến năm 2025. Vấn đề là do đô thị hóa ngày càng trở nên phổ biến và phát triển nhanh cần đòi hỏi các giải pháp Hệ thống giáo dục Hệ thống giao thông Hệ thống quản lý công Hệ thống y tế Hệ thống lõi 84 thông minh đặc biệt là trong các lĩnh vực được coi là chính yếu. Sử dụng các hệ thống thông minh để cải thiện chất lượng cuộc sống của công dân, nhưng cũng và nhiều hơn nữa sẽ phải tính đến việc tiêu thụ hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vì tài nguyên thiên nhiên được xem là hạn chế và sẽ cạn kiện trong tương lai 2.2. Khái niệm đô thị thông minh Caragliu, 2009 đã cho rằng, đô thị thông minh bao gồm 3 thành phần chính đó là (i) Thân thiện với môi trường, (ii) Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong quản lý và (iii) hướng tới phát triển bền vững. Mặc dù hiện nay trên thế giới vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về Đô thị thông minh. Nhưng về cơ bản, đó là mô hình thành phố ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để quản lý, nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống đô thị, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền thành phố và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên. Ở Việt Nam, việc tiếp cận và thực hiện thành phố thông minh xuất phát từ khái niệm “Chính quyền điện tử” làm trọng tâm và phát triển thông minh hơn một số các tiêu chí phù hợp với nhu cầu, điều kiện và nguồn lực có thể có của từng thành phố và từng giai đoạn 2.3. Tiêu chí xác định đô thị thông minh Trên thế giới chưa có các tiêu chuẩn chính thức về thành phố thông minh, tuy nhiên, một số tiêu chí chính sau đây được các tổ chức, các nước lựa chọn để đánh giá và làm tiêu chí xây dựng thành phố thông minh đó là + Nền kinh tế thông minh. + Di chuyển thông minh. + Môi trường thông minh. + Quản lý đô thị hiện đại. + Công dân thông minh. + Cuộc sống thông minh. 3. Kinh nghiệm phát triển Đô thị thông minh trên thế giới và bài học cho Việt Nam 3.1. Kinh nghiệm phát triển đô thị thông minh trên thế giới Việc phát triển một thành phố trở thành thành phố thông minh đã và đang trở thành xu thế phát triển mạnh mẽ của thời đại, trên thế giới cho đến nay đã xuất hiện khá nhiều thành phố thông minh, có thể liệt kê như: New York, Kista, Stockholm, Florence, Đài Bắc, Barcelona, Brisbane, Malta, Dubai và Kochi. Việc nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng thành phố thông minh giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thành 85 phố thông minh và từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng thành phố thông minh. Thành phố Barcelona của Tây Ban Nha: Năm 2009, Thành phố Barcelona đứng thứ 4 trong các thành phố ở khu vực châu Âu về thu hút đầu tư kinh doanh (Crushman và Warkefied, 2009). Các nhà chính quyền đô thị thành phố đã thiết lập và cải cách chính sách phát triển đô thị thông minh. Cải cách nền kinh tế hành chính công sang nền kinh tế tri thức bằng cách kết hợp giữa doanh nghiệp, người dân, chính quyền, thể chế một cách hài hòa. Thông qua sử dụng công nghệ thông tin hiện đại và dịch vụ thông minh đã biến chuyển nền kinh tế hành chính công sang nền kinh tế hiện đại, hiệu quả và thông minh, thúc đẩy thành phố có tính cạnh tranh hơn. Ở đây, các nhà chính quyền đô thị chú trọng đến việc sự tương tác giữa chính quyền, thể chế, người dân và các doanh nghiệp. Kinh nghiệm rút ra bài học từ Barcelona là họ tạo ra Chính quyền thông minh, kinh tế thông minh, công dân thông minh và cuộc sống thông minh. Thành phố Manchester của Anh: Nhấn mạnh đến tái tạo đô thị dựa vào phát triển kỹ thuật số. Các nhà chính quyền đô thị tại thành phố đã nhấn mạnh vai trò của nền kinh tế kỹ thuật số và tạo ra nền kinh thế tri thức để thúc đẩy tái phát triển đô thị. Ngay những năm 80, Manchester đã dần dần phát triển theo xu hướng các thành phố thông minh chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thay đổi xã hội theo hướng đổi mới và tái phát triển. Ba ưu tiên chính được xác định tại thời điểm đó là: tập trung vào khu vực làm việc; phát triển chiến lược 'thành phố sáng tạo'; khuyến khích đổi mới thông qua sự phát triển khoa học kỹ thuật và coi công nghệ và truyền thông (ICT) đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ sở hạ tầng và dịch vụ mới, và do đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Chính quyền Manchester đã xem xét Chiến lược kỹ thuật số và các ưu tiên phát triển kỹ thuật số của riêng mình để xây dựng trên thế mạnh của thành phố nhằm khắc phục tình trạng thiếu vốn để hỗ trợ đầu tư và khởi nghiệp; đổi mới kỹ thuật số để tạo ra cơ sở hạ tầng mới thúc đẩy Manchester phát triển theo hướng 'Thành phố thông minh' trong các lĩnh vực như năng lượng thông minh, điện toán đám mây và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số NGA tốc độ cao (sợi và không dây) , mạng và dịch vụ. Chiến lược kỹ thuật số Manchester chủ yếu đề cập đến khái niệm "Công dân thông minh ở các thành phố thông minh", sử dụng công nghệ kỹ thuật số để thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng, xây dựng năng lực và vốn xã hội. Sử dụng mô hình vốn xã hội bốn cấp, cụ thể là: tạo ra một tầm nhìn chung và ý thức thuộc về tất cả các cộng đồng thông qua việc sử dụng trí tưởng tượng của các công nghệ kỹ thuật số để giúp biến đổi cuộc sống; đảm bảo sự đa dạng được đánh giá cao và được khen thưởng tích cực thông qua việc cải thiện khả năng tiếp cận các công nghệ kỹ thuật số để hỗ trợ mạng lưới xã hội; thu hút mọi người từ các nguồn gốc khác nhau 86 thông qua việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số cho phép họ có cơ hội sống tương tự; khuyến khích thúc đẩy phát triển các mối quan hệ giữa những người có nguồn gốc khác nhau tại nơi làm việc, trong giáo dục và trong khu vực bằng cách sử dụng công nghệ kỹ thuật số để phá vỡ rào cản và thúc đẩy sự gắn kết xã hội. Thành phố Đài Bắc của Đài Loan: Để trở thành một thành phố thông minh trong khu vực và trên thế giới, Đài Bắc đã đầu tư trọng điểm vào hạ tầng công nghệ thông tin cho dịch vụ mạng công cộng và hệ thống giao thông, để đưa Đài Bắc trở thành thành phố di động thông minh nổi tiếng và đã đạt được chứng nhận và giải thưởng thành phố thông minh của ICF vào năm 2006. Với hạ tầng công nghệ thông tin cho các dịch vụ công cộng, thành phố Đài Bắc đã thành công trong việc gần như phủ sóng mạng không dây công cộng trên toàn thành phố để người dân có thể tự do truy cập thông tin tại các địa điểm công cộng tập trung như: sân bay, nhà ga, bến đợi tàu điện ngầm, tàu cao tốc Đài Bắc đã tự động hóa và kỹ thuật số hóa hệ thống giao thông và chương trình quản lý giao thông đô thị đã giúp việc đi lại, luân chuyển của người dân và phương tiện giao thông trong thành phố được thuận lợi, tiện ích. Đài Bắc cũng là Thành phố phát triển chính phủ điện tử mạnh mẽ thực hiện cung cấp các dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp. Các cơ sở dữ liệu dân cư, doanh nghiệp cấp quốc gia đã được triển khai giúp cho việc cung cấp hiệu quả các dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp. Do vậy, Đài Bắc đã rất phát triển và là một trong nền kinh tế phát triển nhất trong khu vực châu Á. Kinh nghiệm rút ra từ Đài Bắc đi đến xây dựng đô thị thông minh là phát triển mạnh hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng tốt nền tảng tích hợp trên cơ sở phát triển chính phủ điện tử và đẩy mạnh các ứng dụng thông minh vào quản lý đô thị. Bảng 1: Các Đô thị Thông minh trên thế giới Vùng Thành Phố Châu Á Bangalore (Ấn độ); Trùng Khánh (Trung Quốc); Doha (Qatar); Gangnam Quận, Seoul (Hàn Quốc); Hong Kong; HwaSeong- DongTan (Hàn Quốc); Hyderabad Ấn Độ); Ichikawa (Nhật Bnar); Jaipur, Rajasthan (India); Jia Ding (Trung Quốc); Kabul (Afghanistan); Mitaka (Nhật Bản); Thượng Hải (China); Seoul ( Hàn Quốc); Singapore; Suwon (Hàn Quốc); Đài Bắc (Đài Loan); Hạt Đào Viên (Đài Loan); Tel Aviv (Israel); Thiên Tân (Trung Quốc); Yokosuka (Nhật Bản) Châu Phi Thị Trấn Cape (Nam Phi); Vịnh Nelson Mandela (Nam Phi) 87 Châu Âu Besangon (Pháp); Birmingham (Anh); Dundee, Scotland (Anh); Eindhoven (Hà Lan); Glasgow, Scotland (Anh); Hammarby Sjostad (Thụy Điển); Issy-les-Moulineaux (Pháp); Karlskrona (Thụy Điển); Malta (Malta); Manchester (Anh); Reykjavik (Iceland); Sopron (Hungary); Stockholm (Thụy Điển); Tallinn (Estonia); Sunderland (Anh); Trikala (Hy Lạp), Barcelona (Tây Ban Nha) Bắc Mỹ Mỹ: Albany (New York); Ashland (Oregon); Arlington County (Virginia); Bettendorf (Iowa); Bristol (Virginia); Chattanooga (Tennessee); Cleveland (Ohio); Corpus Christi (Texas); Dakota County (Minnesota); Danville (Virginia); Dublin (Ohio); Florida High Tech Corridor; LaGrange (Georgia); Northeast Ohio; Loma Linda (California); Riverside (California); San Francisco; Spokane (Washington); Westchester County (New York); Winston-Salem (Carolina) Canada: Burlington (Ontario); Calgary (Alberta); Edmonton (Alberta); Fredericton (New Brunswick); Kenora (Ontario); Moncton (New Brunswick); Ottawa (Ontario); Quebec City (Quebec); Stratford (Ontario); Toronto (Ontario); Vancouver (British Columbia); Waterloo (Ontario); Western Valley (Nova Scotia); Windsor-Essex (Ontario); Winnipeg (Manitoba Trung/Nam Mỹ Barceloneta (Puerto Rico); Curitiba, Parana (Brazil); Pirai (Brazil); Porto Alegre (Brazil) Châu Đại Dương Ballarat (Australia); Gold Coast City (Australia); Ipswich, Queensland (Australia); State of Victoria (Australia); Whittlesea, Victoria (Australia) Nguồn: https://www.intelligentcommunitv.org/index.php?submenu=Awards&src=gendocs&ref=Smart21&categorv=Events&link=Smart21 3.2. Xu hướng xây dựng đô thị thông minh ở Việt Nam 3.2.1. Sự phát triển của đô thị Việt Nam Theo báo cáo của Bộ Xây dựng đến 6/2017 cả nước có 805 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 17 đô thị loại I, 25 đô thị loại II, 43 đô thị loại III, 85 đô thị loại IV và 633 đô thị loại V. Số đô thị nhỏ chiếm 78,6%. Tỷ lệ đô thị hóa trung bình cả nước đạt khoảng trên 37%. Mặc dù tổng diện tích đất tự nhiên đô thị cả nước khoảng 330.610 ha (bằng 1% diện tích đất cả nước), trong đó đất nội thành, nội thị chiếm khoảng 125.000 ha (khoảng 40% tổng diện tích đất đô thị). Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị cao gấp 1,5 - 2 lần so với mặt bằng chung của cả nước, khu vực đô thị hàng năm đóng góp 70 - 75% GDP của Việt Nam. Việt Nam 88 đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, dân số đô thị khoảng 44 triệu người vào năm 2020, chiếm 45% dân số đô thị cả nước; năm 2025, dân số đô thị khoảng 52 triệu người, chiếm 50% dân số đô thị cả nước. Đô thị hóa và công nghiệp hóa luôn có mối quan hệ phụ thuộc, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau. Bằng chứng rõ nét cho sự kết hợp này thể hiện qua số lượng các khu công nghiệp tại Việt Nam tăng nhanh cùng với quá trình đô thị hóa. Số lượng các đô thị và tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam gia tăng khá nhanh (Hình 2 và Hình 3). Hình 2: Tỷ lệ đô thị hóa tại Việt Nam so sánh với các nước và so sánh theo thời gian Nguồn: Ngân hàng thế giới (2011) Hình 3: Sự phát triển của các loại đô thị tại Việt Nam từ năm 1990 và dự báo đến năm 2025 Nguồn: Ngân hàng thế giới và Bộ Xây dựng, 2016 Như Hình 4 chỉ ra mức đô thị hóa theo khu vực ngày càng gia tăng, nhìn chung mức độ đô thị hóa cao tập trung ở hai vùng đó là đồng bằng sông Hồng (gồm Hà Nội và một số tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hà Nam.) và vùng Nam Bộ nơi mà Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm và một số tỉnh lân cận như Cần Thơ. 89 Hình 4: Tỷ lệ đô thị hóa theo vùng Nguồn: GSO, 2009; GSO - UNFPA, 2014. Theo báo cáo của UNFPA (2014) cho biết mức độ đô thị hóa giữa các tỉnh là hoàn toàn khác nhau. Cụ thể Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng có mức độ đô thị hóa cao nhất là 83% và 76,6%. Tại Bình Dương, tỷ lệ đô thị hóa tăng khá nhanh, cụ thể năm 2014 tăng lên 78,7% tăng gấp 2,6 lần so với năm 2009. Các tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa dân số thấp nhất là Thái Bình, Bắc Giang. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc phân bố dân cư đô thị không đồng đều, tập trung ở đô thị lớn với 16% từ đô thị loại đặc biệt và 50% loại I trong tổng dân số đô thị trên cả nước. Do mật độ dân số cao, các thành phố lớn đang phải đối mặt với vấn đề dân số quá mức, thiếu không gian cho người dân sinh sống và phát triển không bền vững. Dân số thành thị ở Việt Nam tăng dần, đặc biệt là từ năm 2000 (Hình 5). Năm 2006 khoảng 32 triệu người thành thị, chiếm 35,2% tổng dân số. Mặc dù số lượng đô thị cao nhất ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, nhưng số lượng dân số cao nhất ở khu vực Đông Nam Bộ. Lý do là mật độ cao hơn ở Đông Nam Bộ và cũng bởi dòng di cư từ khu vực khác đến khu vực này chủ yếu đến các khu công nghiệp và khu đô thị. Trên thực tế, đô thị càng phát triển, dòng người di cư càng lớn (nhóm người di cư có 80% thời gian sống ở thành thị đang tăng đáng kể ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) Hình 5: Dân số đô thị tại Việt Nam Nguồn: Tổng cục thống kê 2015. 90 Dân số đô thị cũng tập trung ở các thành phố lớn nhiều hơn các thành phố nhỏ. Năm thành phố lớn nhất thuộc về các thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) chiếm 41,29% tổng dân số đô thị (năm 2015). Mặc dù nhiều đô thị đang mở rộng, các thành phố ngày càng trở nên quá đông đúc. Mật độ dân số đô thị trung bình ở Việt Nam tăng vừa từ 6.800 người / km2 năm 2000 lên 7.700 người / km2 năm 2010. So với toàn khu vực, dân số sống ở thành thị đông đúc hơn nhưng vẫn ít hơn Indonesia, Hàn Quốc hay Philippines. Ở Việt Nam không có các thành phố lớn với 10 triệu dân trở lên, chủ yếu là các thành phố vừa và nhỏ. Mặc dù tỷ lệ dân số đô thị tăng lên trong năm nay, nhưng nó tăng trưởng chủ yếu ở khu vực thành thị với hơn 200.000 người. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có dân số đô thị cao nhất với lần lượt là 7,8 triệu và 5,6 triệu người, chiếm một phần ba tổng dân số cả nước. Mặc dù số lượng đô thị tăng nhanh, nhưng đa số đều đối mặt với thách thức về chất lượng đô thị chưa bảo đảm, hạ tầng kỹ thuật chưa theo kịp đà phát triển của đô thị, xuống cấp nhanh dẫn đến những hậu quả về tắc đường, thiếu nước sinh hoạt, ngập úng nước thải, nước mưa, rác thải ô nhiễm môi trường...Thiếu các nguồn lực và cơ chế, chính sách ứng phó với xu thế đô thị hóa. Xu hướng xây dựng thành phố/ đô thị thông minh sẽ là xu hướng tất yếu. 3.2.2. Xu hướng phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương định hướng cho phát triển đô thị thông minh. Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, đã chỉ rõ: “Sớm triển khai xây dựng một số khu ha
Tài liệu liên quan