Đoạn văn kết thúc trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng” của Lỗ Tấn

Khi đọc truyện ngắn Lỗ Tấn ta phát hiện mấu chốt vấn đề trải dài trên từng đoạn văn nhỏ, mỗi đoạn văn ở những vị trí khác nhau có vai trò, chức năng khác nhau. Xâu chuỗi những đoạn văn ấy ta thu được chủ đề hoàn chỉnh cho toàn văn bản. Trong đó, đoạn văn kết thúc đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến chỉnh thể tác phẩm cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Nó được thể hiện rất linh hoạt và mang đậm dấu ấn sáng tạo cá tính của nhà văn. Như D. Furmanôp đã nói: Sức mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn kết [2, tr. 3]. Tìm hiểu cấu trúc và nội dung của từng đoạn kết trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng” là cơ sở để hiểu sâu hơn ý đồ nghệ thuật của tác giả, đồng thời khám phá “dấu ba chấm” đằng sau dấu chấm hết tác phẩm.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đoạn văn kết thúc trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng” của Lỗ Tấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm học 2010 – 2011 215 ĐOẠN VĂN KẾT THÚC TRONG HAI TẬP TRUYỆN NGẮN “GÀO THÉT” VÀ “BÀNG HOÀNG” CỦA LỖ TẤN Trần Huỳnh Anh Thơ (SV năm 3, Khoa Ngữ văn) GVHD: TS Đinh Phan Cẩm Vân Khi đọc truyện ngắn Lỗ Tấn ta phát hiện mấu chốt vấn đề trải dài trên từng đoạn văn nhỏ, mỗi đoạn văn ở những vị trí khác nhau có vai trò, chức năng khác nhau. Xâu chuỗi những đoạn văn ấy ta thu được chủ đề hoàn chỉnh cho toàn văn bản. Trong đó, đoạn văn kết thúc đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến chỉnh thể tác phẩm cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Nó được thể hiện rất linh hoạt và mang đậm dấu ấn sáng tạo cá tính của nhà văn. Như D. Furmanôp đã nói: Sức mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn kết [2, tr. 3]. Tìm hiểu cấu trúc và nội dung của từng đoạn kết trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng” là cơ sở để hiểu sâu hơn ý đồ nghệ thuật của tác giả, đồng thời khám phá “dấu ba chấm” đằng sau dấu chấm hết tác phẩm. 1. Cơ sở lý thuyết về đoạn văn kết thúc truyện ngắn 1.1. Khái niệm đoạn văn kết thúc Đoạn văn kết thúc nằm trong hệ thống cấu trúc văn bản. Nó là đoạn đứng cuối văn bản có nhiệm vụ tóm lược, tổng kết các ý kiến đã được trình bày trong những đoạn khai triển hay để bày tỏ thái độ, tình cảm của tác giả về những vấn đề được nêu trước đó. Nó có tính chất “đóng” cả về phương diện hình thức cũng như nội dung văn bản. Tính chất “đóng” ở đây là điểm dừng văn bản theo dụng ý của tác giả. Tuy đoạn văn kết thúc có tính chất “đóng” (khép) văn bản nhưng mạch tư duy của nó nói riêng và của toàn tác phẩm nói chung chưa hẳn đã chấm dứt. Trong trường hợp này, đoạn văn kết thúc có tính chất “mở”. 1.2. Một số đặc điểm của đoạn văn kết thúc truyện ngắn Đoạn văn kết thúc là một bộ phận, là một đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản. Bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm, dấu ba chấm, dấu chấm hỏi hoặc dấu chấm cảm. Nếu đoạn văn có tính trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức thì đoạn văn kết thúc cũng làm được điều đó, nhưng tùy vào dụng ý của nhà văn mà không ít trường hợp đoạn văn kết thúc chỉ đạt được một trong hai yêu cầu về hình thức hay nội dung, thậm chí không hoàn chỉnh về mặt nào cả. Xét về hình thức, đoạn văn kết thúc truyện ngắn có hai loại: đoạn kết bình thường và đoạn kết đặc biệt. Đoạn văn kết thúc có vai trò đáng kể trong việc tạo sức sống cho tác phẩm nghệ thuật, nhà văn Đỗ Chu phát biểu: Còn như việc kết thúc truyện ngắn: đó là một hành động dễ gây ra những xúc động đột ngột. Ta sẽ thấy rất sung sướng nếu cảm thấy vừa khép kín một cái gì hình thành. Và ta sẽ buồn bã biết bao nếu chợt nhận ra mình đã lầm lẫn. Ở phút dừng lại, có thể biết những gì mình viết ra thành công đến đâu. Cái thú của người viết truyện ngắn có khi nằm ngay ở chỗ đó nữa [2, tr. 15]. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 216 2. Cấu tạo đoạn văn kết thúc trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng” của Lỗ Tấn 2.1. Đoạn kết có cấu tạo bình thường Đoạn kết có cấu tạo bình thường được xây dựng theo một số cấu trúc nhất định và có quan hệ nội tại tương đối chặt chẽ. Đoạn kết có cấu tạo bình thường là những đoạn kết theo dạng diễn dịch, quy nạp, móc xích hay song hành. Đoạn kết có cấu tạo bình thường trong truyện ngắn Lỗ Tấn chiếm tỷ lệ 60% (15/25 truyện). 2.1.1. Đoạn kết diễn dịch Đoạn kết diễn dịch là đoạn kết có nội dung phát triển theo hướng từ câu có ý chung, khái quát đến những câu có ý riêng, cụ thể. Câu đầu là câu quan trọng nhất, còn gọi là câu chủ đề, câu nòng cốt, câu chốt, câu khóa. Nó là đầu mối của mọi liên kết trong toàn đoạn hoặc đánh dấu một sự kiện mở đầu tạo điều kiện cho các sự kiện tiếp theo xảy ra. Những câu theo sau có nhiệm vụ triển khai chủ đề bằng cách giải thích, chứng minh, phân tích, Đoạn kết có cấu trúc diễn dịch chiếm 24% gồm 6 truyện: Mẩu chuyện nhỏ, Luồng ánh sáng, Lễ cầu phúc, Miếng xà phòng, Cao Phu Tử, Tiếc thương những ngày đã mất. 2.1.2. Đoạn kết quy nạp Đoạn kết quy nạp là đoạn kết có nội dung phát triển theo hướng từ những câu có ý nghĩa riêng, cụ thể đến câu có ý nghĩa chung, khái quát. Nghĩa là nó được thiết lập ngược hẳn với đoạn kết diễn dịch. Loại đoạn kết có cấu trúc quy nạp trong truyện ngắn Lỗ Tấn chỉ có một truyện là Cố Hương, chiếm tỷ lệ 4%. 2.1.3. Đoạn kết móc xích Đoạn kết móc xích là đoạn kết mà các câu nối tiếp nhau về ý theo kiểu chuỗi xích: hệ quả của câu trước là tiền đề cho câu sau. Những sự kiện tiếp nối nhau theo một mạch logic nhất định và trong phạm vi nào đó khó có thể thay đổi vị trí được. Loại đoạn kết này có 4 tác phẩm, chiếm tỷ lệ 16%, gồm các truyện ngắn: Thuốc, Thỏ và mèo, Trong quán rượu, Một gia đình hạnh phúc. 2.1.4. Đoạn kết song hành Đoạn kết song hành là đoạn kết có các câu triển khai những nội dung song song với nhau, không nội dung nào bao trùm nội dung nào, tức là các câu trong đoạn ngang hàng với nhau về mặt nội dung. Tất cả các câu ấy cùng tập trung thể hiện chủ để của đoạn. Loại đoạn này không có phần mở đầu và phần kết thúc, không có câu chủ đề. Các tác phẩm truyện ngắn Lỗ Tấn có đoạn kết song hành chiếm tỷ lệ 12%, gồm có: Ngày mai, AQ chính truyện, Anh em. 2.1.5. Đoạn kết có cấu trúc kết hợp Khảo sát 25 truyện ở hai tập “Gào thét” và “Bàng hoàng”, ta thấy hầu hết các đoạn văn kết thúc đều nằm trong một cấu trúc cấu trúc nhất định, tùy mỗi truyện. Nhưng ngoại trừ truyện ngắn “Sóng gió” thì có nét khác biệt, đoạn văn kết thúc không Năm học 2010 – 2011 217 thuần túy thuộc cấu trúc nào cả mà là sự kết hợp giữa hai hình thức diễn dịch và song hành. 2.2. Đoạn kết có cấu tạo đặc biệt Đoạn kết có cấu tạo đặc biệt là đoạn kết chỉ gồm có một từ, một cụm từ hoặc một câu. Có trường hợp nó là một bài ca dao, đồng dao hay một đoạn bài hát nào đó, v.v hoặc một thủ pháp nghệ thuật độc đáo được nhà văn sử dụng. Sự xuất hiện của đoạn văn kết thúc truyện ngắn có cấu tạo đặc biệt thường nằm trong ý đồ sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Nó mang đậm dấu ấn phong cách nhà văn và góp phần gây hứng thú cho người đọc. Đoạn kết có cấu tạo đặc biệt chiếm tỷ lệ 40% (10/25): Nhật ký người điên, Khổng Ất Kỷ, Chuyện cái đầu tóc, Tết Đoan ngọ, Kịch vui đàn vịt, Hát tuồng ngày rước thần, Cây trường minh đăng, Thị chúng, Con người cô độc, Ly hôn. Thông thường với cấu tạo đặc biệt, đoạn kết sẽ là một kết thúc mở mang sắc thái ý nghĩa rất phong phú, tạo ra nhiều hướng nhìn nhận, những cảm xúc và cách giải quyết vấn đề khác nhau từ phía độc giả. Đối với nhà văn thì trong những kết thúc như vậy sẽ thuận tiện cho việc đưa đến chiều sâu triết luận không những cho đoạn kết mà còn cho toàn bộ tác phẩm. Hình thức kết thúc tác phẩm như thế nào là do dụng ý của nhà văn chi phối và quyết định. Thông qua hình thức ấy nhà văn muốn truyền đến độc giả nội dung bên trong, cái tầng tâm hồn được gửi gắm trong đó. Bước thống kê và chỉ ra cấu tạo của đoạn văn kết thúc trong từng tác phẩm là cơ sở tiền đề cho công việc tìm hiểu nội dung cụ thể tiếp sau. 3. Nội dung đoạn văn kết thúc trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng” của Lỗ Tấn 3.1. Kết thúc khép Đoạn văn kết thúc khép là đoạn văn mang tính chất thâu tóm các sự việc đã diễn ra trong tác phẩm. Nó phản ánh hệ quả tốt hay xấu của toàn bộ diễn tiến các biến cố, sự việc, liên quan đến nhân vật. Kết thúc khép trùng với phần mở nút của cốt truyện, nó trình bày kết quả của xung đột, xóa bỏ xung đột. Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn kiểu kết thúc khép chiếm tỷ lệ 52% trội hơn so với kết thúc mở (24%). Kết thúc khép là nơi mà xung đột truyện được giải quyết, điều mà nhà văn muốn nói cùng dừng lại với dấu chấm hết tác phẩm. Nhưng không vì thế mà không để lại ấn tượng trong lòng người đọc, ngược lại nó làm cho người đọc trăn trở, suy nghĩ nhiều hơn về những vấn đề được đề cập đến trong tác phẩm. Đối với kiểu đoạn kết khép, người viết tạm chia làm hai loại nhỏ như sau: 3.1.1. Đoạn kết khép không bộc lộ trực tiếp thái độ, tâm trạng của tác giả Đối với những truyện ngắn có kết thúc khép không bộc lộ trực tiếp, thái độ tâm trạng của tác giả gồm có: Chuyện cái đầu tóc, Sóng gió, AQ chính truyện, Tết Đoan ngọ, Luồng ánh sáng, Một gia đình hạnh phúc, Thị chúng, Cao phu tử. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 218 Trường hợp thứ nhất là những tác phẩm có đoạn văn kết thúc phản ánh tâm trạng, suy nghĩ, hành động và thái độ của nhân vật: Chuyện cái đầu tóc, Tết Đoan ngọ, Cao phu tử, Một gia đình hạnh phúc. Qua tầng sâu tâm hồn nhân vật ta có thể gián tiếp hiểu được nhà văn. Ông N. trong Chuyện cái đầu tóc tuy không đấu tranh trực diện với tàn dư phong kiến nhưng hành động cắt đuôi sam phần nào cho thấy ông ủng hộ cách tân và cải cách xã hội. Mặc dù rất mờ nhạt nhưng cũng đáng ghi nhận. Song thực tế vẫn tồn tại những trí thức mơ hồ trước cuộc đời, có cách sống cầu an, hèn nhát đến mức tự tạo cho mình một triết lý sống an phận. Đại biểu cho dạng trí thức này trong truyện ngắn Lỗ Tấn là ông Phương Huyền Xước. Trải qua nhiều sự việc mà ông Xước cho là “một chín một mười như nhau cả” đến hoàn cảnh túng quẫn của gia đình trong khi chuẩn bị đón Tết Đoan ngọ, thế mà ông vẫn bình thản “Ông Xước cũng không nói hết câu, ưỡn lưng một cái, giở cuốn Thường thí tập, ngâm nga”. Một kết thúc thi vị đấy chứ! Đoạn kết phản ánh hành động nhàn hạ của ông Xước nhưng lại mang đến cho độc giả cái nhìn phê phán, phẫn uất, lên án đối với loại trí thức vị kỷ, nhu nhược. Qua đoạn kết phản ánh hành động của nhân vật, nhà văn đã tổng kết bản chất một cá nhân con người, hơn thế nữa là cả một dạng trí thức đang hiện diện thản nhiên, quay lưng trong giai đoạn Cách mạng cần họ. Trường hợp thứ hai đoạn kết không bộc lộ trực tiếp thái độ, tâm trạng của tác giả mà chỉ nêu ra một chuỗi sự kiện tiếp sau theo mạch phát triển của câu chuyện hoặc cảnh tượng hiện thực lúc đó mà vắng đi sự trăn trở, suy tư. Cụ thể là: AQ chính truyện, Luồng ánh sáng, Thị chúng. Theo dõi suốt chiều dài cuộc đời AQ, ta thấy AQ không đơn độc mà bên cạnh y còn có “quần chúng”. Lỗ Tấn không tiếp tục dùng ngòi bút của mình để viết về AQ trong đoạn văn kết thúc mà ở vị trí đó nhà văn dành riêng cho “quần chúng” xung quanh AQ. Lúc này, cái “quần chúng” ấy hiện lên với đầy đủ vóc dáng của “con bệnh thời đại”: “Còn về dư luận, thì cả làng Mùi đều nhất trí công nhận rằng: AQ không phải là người lương thiện, chứng cớ là y đã bị bắn, vì rằng: nếu là người lương thiện thì sao lại bị bắn kia chứ! Trên huyện thì dư luận không lấy gì làm hay lắm. Phần nhiều họ không thỏa mãn. Họ bảo: bắn người trông không vui mắt bằng chém, mà cái tên tử tù kia trông buồn cười thế nào ấy. Đã bị đưa lên bêu phố một hồi như vậy mà cũng không hát lên được một câu, thành ra đi theo nó bao nhiêu đường đất, chỉ mất công toi”. Song hành hai ý kiến khác nhau: một bên là của người dân làng Mùi, một bên là của những người trên huyện. Tuy kết luận của hai bên về cái chết của AQ khác nhau nhưng thật chất đều xuất phát từ một nguồn. Đấy không gì khác hơn là thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với chính người cùng chung dân tộc, người mà họ vẫn gọi nhau bằng hai tiếng trìu mến “đồng bào”. Trước thực tế này, Lỗ Tấn quặn lòng đau xót: Chúng tôi rút cục vẫn chưa đổi mới được nhân dân một nước cũ kỹ như thế. Cho nên, người này chưa thể cảm thông được với người kia, đến nỗi tay mình cơ hồ cũng không thể hiểu được chân mình [1, tr. 17]. Nếu được phép làm một cuộc lắp ghép thì người đọc có thể Năm học 2010 – 2011 219 lồng truyện ngắn Thị chúng vào giai đoạn bêu phố trước khi AQ bị đưa lên hành hình, để có thể thấy được tất thảy những khuôn mặt háo hức, tò mò, “quan tâm” đến người đồng bào xấu số. Như thế mới thấy “căn bệnh mãn tính” của đa số người dân bấy giờ là thái độ bàng quan, lạnh nhạt trước những bất hạnh của người khác. Tuy cùng bị áp bức, bóc lột nhưng trước tai nạn chung, họ chưa có sự đồng cảm. Nỗi bất hạnh rơi vào đầu ai thì người ấy phải chịu, thậm chí còn cho đó là trò tiêu khiển, là thú vui. Lỗ Tấn chứng kiến điều đau lòng ấy, ông quả quyết: “cho nên, điều chúng ta cần phải làm trước tiên là biến đổi tinh thần họ, và theo tôi hồi đó, thì muốn biến đổi tinh thần họ tất nhiên không gì bằng văn nghệ” [1, tr. 33]. Chỉ riêng khía cạnh này ta nhận thấy chủ đề quốc dân tính càng trở nên thấm thía, sâu sắc thể hiện qua ngòi bút máu hòa nước mắt của nhà văn Lỗ Tấn. 3.1.2. Đoạn kết khép bộc lộ trực tiếp thái độ, tâm trạng của tác giả Đoạn kết khép bộc trực tiếp thái độ, tâm trạng của tác giả thường thể hiện qua nhân vật “tôi”. Nhà văn có thể lấy bản thân mình đưa vào tác phẩm, song khi đã trở thành nhân vật thì nó không còn là “nguyên mẫu” của con người thật mà là hình tượng nghệ thuật. Coi “tôi” là tác giả, ta đã vô tình thu hẹp tính điển hình của nhân vật, đồng thời càng không giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa các nhân vật “tôi” trong hệ thống các truyện ngắn. Như vậy, “tôi” là một nhân vật vừa khách quan vừa chủ quan, là kiểu nhân vật người kể chuyện xuất hiện cụ thể và rõ ràng trong tác phẩm. Trong các truyện ngắn “tôi” - nhân vật kể chuyện ngôi thứ nhất - là đầu mối dẫn ra câu chuyện và phát triển câu chuyện, là tấm gương soi chiếu bộ mặt các nhân vật. Bằng cách này, tác giả có điều kiện bộc bạch trực tiếp quan điểm tư tưởng của mình như trong các truyện ngắn: Nhật ký người điên, Lễ cầu phúc, Khổng Ất Kỷ, Mẩu chuyện nhỏ, Hát tuồng ngày rước thần. Khép lại tác phẩm “Nhật ký người điên” là câu cầu khiến “Hãy cứu lấy các em” mặc dù khi đã giác ngộ về giai cấp, không tin vào tiến hóa luận nữa, Lỗ Tấn có viết: Bây giờ nếu lại đăng một bài nghị luận rất mực ôn hòa như “hãy cứu lấy các em” thì ngay tôi, nghe cũng thấy rỗng tuếch (Trả lời ông Hữu Hằng, Tạp văn, tập II) nhưng trong thời điểm ông viết câu ấy, nó mang ý nghĩa hàm súc và tích cực. Ngay cả đến thời đại ngày nay, khách quan mà nhìn nhận ta vẫn thấy câu ấy không hoàn toàn “rỗng tuếch” mà bản thân nó là một thông điệp hay đúng hơn là một “lời cầu cứu”. Có thể nhận thấy niềm hy vọng mãnh liệt của người điên mong muốn thế hệ sau sống trong lòng xã hội nhân ái, tốt đẹp hơn, không còn cảnh “người ăn thịt người”. Người điên là hình tượng khác thường, tiếng nói của anh ta từ đầu cho đến cuối nhật ký vang lên nhất quán, hệ thống. Từ đây Lỗ Tấn đã gây ra một sự chú ý, một tiếng thét có sức chấn động, vang xa công kích lễ giáo hủ lậu để bên vực quyền sống con người, để thức tỉnh người Trung Hoa vốn đang “ngủ say trong một mái nhà hộp bằng sắt, không có cửa sổ” [7, tr. 71]. Tinh thần triệt để chống phong kiến về sau được phát triển cao hơn trong “Cây trường minh đăng”. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 220 Cho đến bây giờ, Lỗ Tấn vẫn được coi là nhà văn hiểu sâu sắc nhất cuộc sống của nhân dân lao động Trung Quốc. Lỗ Tấn luôn hết lòng trân trọng người dân lao động, ông ngạc nhiên trước phẩm chất cao đẹp của họ. “Tôi” trong Mẩu chuyện nhỏ là người trực tiếp bộc bạch lòng tôn kính người lao động, tự thấy mình hổ thẹn trước họ và yêu cầu nghiêm khắc cải tạo con người tiểu tư sản nhỏ bé của mình. “Mẩu chuyện này, đến bây giờ, tôi thường thường vẫn nhớ tới, và do đó, cảm thấy đau khổ vô cùng và cố gắng suy nghĩ về con người tôi. Mấy năm lại đây, bao nhiêu chuyện văn trị võ công tôi đều quên hết, như đã quên những câu “Tử viết thi vân” hồi còn nhỏ. Duy có mẩu chuyện nhỏ này cứ hiện lên trước mắt, có lúc còn rất rõ ràng, khiến tôi hết sức xấu hổ, thúc giục tôi phải tự sửa mình, và cũng làm cho tôi càng thêm can đảm, càng thêm hy vọng”. “Càng thêm can đảm, càng thêm hy vọng” chính là dự cảm về nhân dân lao động sẽ có vai trò quan trọng trong xã hội mới. Nhà văn vui mừng khi cảm tưởng cách mạng rồi sẽ không còn đơn độc mà sẽ có nhiều bàn tay như anh phu xe tham gia chiến đấu. Cho đến năm 1927, Lỗ Tấn trở thành một nhà cộng sản chân chính, ông tuyên bố khẳng định: “Quả đích xác chỉ có giai cấp vô sản đang trưởng thành mới có tương lai” [1, tr. 22]. Thông qua những tác phẩm vừa phân tích đoạn văn kết thúc ta thấy tác giả có điều kiện bộc bạch trực tiếp quan điểm tư tưởng của mình với vai trò đặc biệt của nhân vật “tôi”. Còn đối với các tác phẩm Trong quán rượu, Con người cô độc, Tiếc thương những ngày đã mất thì tác giả để tư tưởng, tình cảm của mình thấm đượm vào nhân vật “tôi”, gây một cảm xúc rất “thật” lôi cuốn độc giả. Cuộc gặp gỡ giữa “tôi” và Lã Vi Phủ “trong quán rượu” khiến “tôi” hết sức bất ngờ trước sự đối lập hoàn toàn giữa Lã Vi Phủ nhiệt huyết cách mạng trước đây và Lã Vi Phủ chí khí tiêu mòn ở hiện tại. “Chúng tôi cùng đi ra. Khách sạn anh ta trọ và khách sạn của tôi trọ, ở trái nẻo nhau, nên ra đến cửa là chia tay. Tôi đi về khách sạn một mình. Gió lạnh và tuyết cứ phả vào mặt, nhưng lại thấy trong người dễ chịu. Nhìn thấy trời đã nhá nhem tối rồi, và nhà cửa, đường phố đều như nằm trong màn lưới tuyết dày đặc, trắng xóa và luôn luôn di động”. Nếu khách sạn của hai người cùng hướng nhau và cùng nhau đi một nẻo đường thì cơ hồ vẫn còn hy vọng vực Lã Vi Phủ trở về với sức sống lý tưởng thời trai trẻ. Thế nhưng hai người lại đi ngược hướng, trái nẻo với nhau cho thấy giờ đây chí hướng hai người đã khác, cách sống, thái độ, hành động cũng khác nhau. Người đọc sẽ lấy làm khó hiểu trước sự “dễ chịu” của “tôi” nhưng đi vào tầng sâu bên trong cái gọi là “dễ chịu” ấy ta cảm nhận được tâm hồn đang buốt giá vì “gió lạnh và tuyết cứ phả vào mặt” hay đúng hơn là tiếc cho một lý tưởng đã đóng băng không còn nhiệt huyết nữa. Sự thay đổi của con người chóng vánh, vụt nhanh như “màn lưới tuyết dày đặc, trắng xóa và luôn luôn di động”. Hiện thực tối tăm đã làm cho tâm hồn không ít trí thức tiểu tư sản méo mó, song cái bệnh cô độc “tự mình kéo kén gói mình vào trong” cũng là nguyên nhân đưa đến kết cục bi thảm. Tuy tiếp thu tư tưởng cách mạng nhưng vì không có lý tưởng kiên định, lại xa rời phong trào cách mạng của quần chúng nên rốt cuộc họ bị dao động, đổ Năm học 2010 – 2011 221 vỡ, bi quan, thậm chí đầu hàng. Lỗ Tấn đau xót cho họ nhưng cũng nghiêm khắc phê phán nhược điểm ra rời thực tế, thoát ly quần chúng, cô độc, trống rỗng của họ. Trong các đoạn văn kết thúc khép, nhà văn đã đưa ra cách mở nút rất hợp lý. Cách giải quyết mâu thuẫn trong tác phẩm thấm đẫm tư tưởng, tình cảm của tác giả - mặc dù bộc lộ trực tiếp hay không trực tiếp thái độ, tâm trạng vào đoạn cuối. Tuy có nhiều chỗ khó hiểu, nhưng sau khi suy ngẫm, xem xét người đọc tìm gặp cái “tôi” của tác giả và từ đó đồng cảm, hiểu sâu sắc hơn. Nhận định: Đọc xong hai tập Gào thét, Bàng hoàng nhắm mắt lại có thể hình dung bóng dáng của Lỗ Tấn là hoàn toàn đúng. 3.2. Kết thúc mở Kết thúc mở là kết thúc gợi nhiều khả năng của sự việc mà người đọc có thể liên tưởng, giả định theo nhiều chiều hướng, tình huống khác nhau. Lúc này ý định của nhà văn khó lòng chi phối cách giải quyết của người tiếp nhận. Đối với kiểu kết này, tuy đánh dấu sự mở nút của vấn đề được đưa ra nhưng mâu thuẫn vẫn tiếp tục căng thẳng hoặc chưa được xóa bỏ. Thế nên, nó buộc người đọc phải nhập cuộc, phải suy nghĩ và cùng trăn trở về những vấn đề nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Khi tìm hiểu đoạn văn kết thúc mở (chiếm 24%) trong tác phẩm truyện ngắn của Lỗ Tấn người viết chia thành hai loại nhỏ là: Đoạn kết để ngỏ và đoạn kết không phải là kết thúc. 3.2.1. Đoạn kết để ngỏ Kết thúc để ngỏ trong truyện ngắn Lỗ Tấn không nhiều nhưng nó có sức khơi dậy khả năng phân tích, tìm tòi ở độc giả như các tác phẩm: Thỏ và mèo, Kịch vui đàn vịt, Cố hương. Ý nghĩa của đoạn kết để ngỏ thể hiện đậm nét trong truyện ngắn Cố hương. Tác phẩm phản ánh chế độ đẳng cấp phong kiến đã xây dựng bức tường ngăn cách người với người, phá hoại những tình cảm trong sáng, chân thành... Nhà văn hy vọng một ngày kia trong tương lai bức tường đó sẽ bị đạp đổ, bị xóa bỏ để cho thế hệ sau – Thủy Sinh và cháu Hoằng – được sống trong xã hội công bằng, tốt đẹp. Cuối tác phẩm tác giả viết bằng cả niềm tin: “Tôi đan