TÓM TẮT
Giáo dục đại học (GDĐH) không phải đơn giản là sự nối dài của giáo dục phổ thông,
cũng không phải chỉ đào tạo nghề như giáo dục chuyên nghiệp. Giáo dục đại học vừa phải
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, vừa phải đào tạo một đội ngũ trí thức có
chuyên môn, có bản lĩnh, có óc sáng tạo và tư duy phê phán, đồng thời có tinh thần phản
biện, ý thức trách nhiệm trước xã hội về những vấn đề của đất nước, của dân tộc. Muốn
hoàn thành sứ mạng ấy, trường đại học phải thay đổi cách quản lí, đổi mới chương trình,
nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy, học tập và đánh giá, xây dựng trường đại học
thành môi trường tự do học thuật, môi trường văn hóa.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới nhận thức về sứ mạng của giáo dục đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 21 - Thaùng 6/2014
75
ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ SỨ MẠNG
CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN(*)
TÓM TẮT
Giáo dục đại học (GDĐH) không phải đơn giản là sự nối dài của giáo dục phổ thông,
cũng không phải chỉ đào tạo nghề như giáo dục chuyên nghiệp. Giáo dục đại học vừa phải
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, vừa phải đào tạo một đội ngũ trí thức có
chuyên môn, có bản lĩnh, có óc sáng tạo và tư duy phê phán, đồng thời có tinh thần phản
biện, ý thức trách nhiệm trước xã hội về những vấn đề của đất nước, của dân tộc. Muốn
hoàn thành sứ mạng ấy, trường đại học phải thay đổi cách quản lí, đổi mới chương trình,
nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy, học tập và đánh giá, xây dựng trường đại học
thành môi trường tự do học thuật, môi trường văn hóa.
Từ khóa: giáo dục đại học, giáo dục phổ thông, nguồn nhân lực, tư duy phê phán,
phương pháp giảng dạy
ABSTRACT
Higher education is neither the lengthening-link of the general education nor
vocational training. The higher education functions as a source providing the society with
a great number of labors of high quality and at the same time, forms the contingent of
intellectuals imbued with professional quality, skill and spirit combined, a creative and
critical thinking, as well the consciousness of the problems of the country. Fulfil the
commission, universities have to change the way of management, innovate the syllabuses,
the curricula, the teaching methods, and the way of evaluation. Universities will be formed
as a cultural and academic environment.
Keywords: higher education, general education, labor source, critical thinking,
teaching methods
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 8 về “Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục” đã định hướng và mở ra những
cơ hội mới cho giáo dục Việt Nam nói
chung và giáo dục đại học nói riêng.
(*)Trước hết, được đổi mới một cách căn
bản và toàn diện chính là nguyện vọng của
bản thân giáo dục đại học. Những người
làm công tác quản lí cũng như giảng dạy ở
trường đại học từ lâu đã mong ước được
(*)TS, Trung tâm Thông tin – Truyền thông
& Phát triển Giáo dục, Trường Đại học Sài Gòn
bật đèn xanh, được phép thay đổi cách tổ
chức nhà trường, cách tuyển sinh, thi cử,
cách đánh giá để có thể đào tạo tốt hơn và
đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực
cho sự phát triển đất nước. Những năm qua
giáo dục đại học Việt Nam đã chịu quá
nhiều ràng buộc, ràng buộc từ bên trên và
ràng buộc tự chính mình. Vì vậy bây giờ
được đổi mới căn bản và toàn diện là niềm
vui của những người làm công tác giáo dục
đại học.
Nhưng đồng thời đổi mới cũng yêu
ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
76
cầu, đặt ra những thách thức cho giáo dục
đại học, bởi vì không phải ai khác mà
chính giáo dục đại học phải tự biết mình
phải làm gì để thay đổi, phải thay đổi cái gì
và thay đổi như thế nào. Đây mới chính là
cái khó, cái lõi của việc thực hiện chủ
trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục đại học. Thực tế cho thấy có rất nhiều
thứ ngăn cản sự phát triển của giáo dục
không phải lúc nào cũng xuất phát từ bên
trên hay bên ngoài, mà nằm ngay trong
chính bản thân giáo dục. Lấy ví dụ chuyện
tuyển sinh đại học. Rất nhiều năm Bộ GD-
ĐT tổ chức theo kiểu “ba chung”. Dĩ nhiên
thi “ba chung” cũng có một số cái lợi,
nhưng nhìn trong tổng thể nó có quá nhiều
nhược điểm. Nhiều người cho rằng “ba
chung” đáng lẽ phải “cáo chung” từ lâu.
Sau khi có Nghị quyết của Trung ương về
Đổi mới giáo dục, từ năm 2014, Bộ GD-
ĐT bắt đầu triển khai tuyển sinh theo cách
phối hợp “ba chung” với việc cho phép các
trường tự tuyển sinh riêng. Đó là một bước
tiến. Những việc cụ thể như vậy tự bản
thân giáo dục đại học có thể làm rất nhiều.
Tuy nhiên, theo chúng tôi hiểu, đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo
không phải chỉ dừng ở những khâu cụ thể.
Nó phải bắt đầu trước hết trong nhận thức
về tính chất, sứ mạng của giáo dục đại học.
Ở nước ta lâu nay GDĐH thường được
hiểu không chính xác. Thứ nhất, nó được
hiểu như sự nối dài của giáo dục phổ
thông, một thứ phổ thông cấp 4, như nhiều
người vẫn quen gọi. Sự khác nhau giữa phổ
thông và đại học không được hiểu như ở
tính chất việc học mà ở số lượng và độ khó
của tri thức. Học sinh và sinh viên không
khác gì nhau. Chất lượng đào tạo ở đại học
kém, việc sinh viên không có khả năng tự
học và ít tham gia nghiên cứu khoa học có
một phần bắt nguồn từ quan niệm này.
Thứ hai, GDĐH thường được đồng
nhất với giáo dục nghề nghiệp, xem nhiệm
vụ cơ bản của trường đại học chỉ là đáp
ứng nhu cầu ngành nghề của nền kinh tế.
Chúng ta đều biết trường đại học ra đời
một phần là do nhu cầu đòi hỏi nguồn nhân
lực cao của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhưng đó không phải là tất cả. Đã có một
thời gian rất dài ở nước ta, nhà trường chủ
yếu đào tạo người để ra làm quan, giúp đời,
giúp nước. Đó không phải là sai lầm hoàn
toàn. Bởi vậy, nếu chỉ xem trường đại học
như nơi đào tạo những thợ bậc cao, những
chuyên gia lành nghề thì vô tình đã làm
mất đi một phần sứ mệnh quan trọng của
giáo dục và điều đó dẫn đến những thiếu
sót trong đào tạo đại học. Chúng ta thử lấy
ví dụ trong việc đào tạo giáo viên.
Vừa qua có khá nhiều cuộc thảo luận
về chất lượng người thầy và công tác đào
tạo giáo viên. Nhiều ý kiến cho rằng phần
đông giáo viên đứng lớp hiện nay chỉ là
“thợ dạy” chứ chưa phải là thầy giáo đúng
nghĩa của nó. Dĩ nhiên bản thân công việc
của người “thợ dạy” nếu làm cho tốt cũng
đã quý rồi và thực tế cho thấy ngay cả chỉ
làm “thợ dạy” thôi, nhiều giáo viên cũng
chưa hoàn thành được. Tuy nhiên trường
phổ thông là nơi dạy người, là môi trường
để hình thành nhân cách và sự phát triển
toàn diện của trẻ, ở đó trẻ em không chỉ
cần học chữ, nắm được những kiến thức
phổ thông mà còn học cách sống, cách làm
người. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi người giáo
viên không thể chỉ biết cách truyền thụ
kiến thức như một người thợ lành nghề, mà
còn phải là một nhà giáo dục.
Lâu nay khi nói đến yêu cầu làm sao
để nâng cao hiệu quả giáo dục của người
thầy, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc
bồi dưỡng cho SV sư phạm những kiến
thức về Tâm lí học, Giáo dục học. Những
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
77
người tốt nghiệp các trường ĐH khác,
không phải sư phạm, chỉ cần học thêm một
số chứng chỉ về sư phạm là được coi như
đủ điều kiện để đi dạy. Điều này hoàn toàn
không có gì sai. Những kiến thức về khoa
học giáo dục hết sức cần thiết cho giáo
viên. Trong một thời gian dài chúng ta đã
coi nhẹ khoa học giáo dục và công tác
nghiên cứu giáo dục. Điều này đã để lại
một lỗ hổng lớn trong giáo dục nước ta.
Tuy nhiên, để làm được công việc của
người thầy - nhà giáo dục, có lẽ vẫn cần
thêm một thứ gì đó rất quan trọng, mà theo
chúng tôi, đó chính là những phẩm chất
của người thầy, với tư cách là người trí
thức, người có văn hóa. Người “thợ dạy”
phiến diện hơn người thầy chính là ở chỗ
này. Chữ THẦY ngoài ý nghĩa cao quý của
nó, còn bao hàm sự thông thái, hiểu biết
toàn diện, thái độ bao dung dựa trên cơ sở
văn hóa, sự kết hợp hài hòa giữa tri thức và
nhân cách. Có như thế mỗi thầy cô giáo
mới có thể trở thành nhà giáo dục. Người
thầy truyền thụ kiến thức cho học sinh
bằng hiểu biết chuyên môn của mình,
nhưng tác động đến trẻ em bằng cách hành
xử, bằng nhân cách của chính bản thân
mình, mà cách hành xử này phụ thuộc rất
nhiều vào vốn văn hóa, phẩm chất đạo đức,
sự am hiểu con người. Không có được
những điều này, người đi dạy khó làm tròn
trách nhiệm của nhà giáo dục đúng theo
nghĩa của nó. Kinh nghiệm cho thấy xưa
nay những nhà sư phạm lớn đều là những
nhà văn hóa, những trí thức lớn.
Đổi mới căn bản và toàn diện GDĐH
yêu cầu đổi mới hàng loạt vấn đề, nhưng
một trong những vấn đề hàng đầu là phải
đổi mới ngay chính nhận thức về sứ mạng
của nó. Đây là cái gốc, là vấn đề của mọi
vấn đề. Cần phải nhận thức sâu sắc và đầy
đủ rằng trường đại học vừa phải là nơi
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao,
có chuyên môn ngành nghề giỏi, vừa phải
là nơi đào tạo một đội ngũ trí thức có óc
sáng tạo và tư duy phê phán, có văn hóa,
có bản lĩnh, tinh thần phản biện và ý thức
trách nhiệm trước xã hội về những vấn đề
của đất nước và dân tộc. Mỗi sinh viên tốt
nghiệp trường đại học phải trở thành một
người trí thức, chứ không phải chỉ là một
người chỉ có chuyên môn giỏi. Phẩm chất
trí thức ấy biểu hiện ở chỗ người sinh viên
phải là người say mê hiểu biết, khát khao
chân lí, miệt mài, tận tụy trên con đường
học hỏi, khám phá và chống lại mọi thứ giả
dối, thiếu trung thực. Phẩm chất trí thức ấy
cũng biểu hiện ở chỗ người sinh viên có
khả năng dấn thân – dấn thân trong khoa
học hay trong hoạt động xã hội - có tinh
thần bảo vệ công lí, thức tỉnh quần chúng ý
thức về tự do và phẩm giá của con người.
Trường đại học phải vừa cung cấp cho nền
kinh tế những người có khả năng tạo ra
năng suất lao động cao, vừa tạo ra cho xã
hội một đội ngũ trí thức có khả năng đi đầu
trong việc nhận thức con đường phát triển
của xã hội và lôi kéo, tác động vào quần
chúng. Đây mới thực sự là sứ mạng cao cả
của trường đại học.
Để thực hiện được sứ mạng này, giáo
dục đại học tự mình phải đổi mới căn bản
và toàn diện nhiều khâu, nhiều mặt.
Trước hết, về chương trình và nội dung
đào tạo, cần giúp sinh viên mở rộng tầm
nhìn và hiểu biết về thế giới, về xã hội và
con người, rộng hơn ngành nghề chuyên
môn của mỗi người. Sinh viên tốt nghiệp
đại học khác một người thợ lành nghề ở
chỗ anh ta có nhãn quan rộng hơn, hiểu
biết về những khả năng ở phía trước và
luôn hướng tới những khả năng đó. Về
phương diện này, những kiến thức chung
của một khối ngành, đặc biệt là những kiến
ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
78
thức về khoa học xã hội và nhân văn là hết
sức cần thiết, nhất là đối với sinh viên các
trường khoa học tự nhiên và công nghệ.
Phải thừa nhận rằng những năm qua việc
đưa vào giảng dạy chương trình giáo dục
đại cương tuy đúng hướng nhưng chưa
mang lại kết quả mong muốn. Một phần là
do nội dung, một phần do cách giảng dạy.
Thứ hai, phải đổi mới triệt để phương
pháp dạy và học. Phải đoạn tuyệt triệt để
với lối học ở phổ thông, phát huy tính tự
học, tự mình quyết định và điều khiển việc
học của mình. Thầy giáo cũng phải khắc
phục triệt để lối dạy áp đặt, khuyến khích
sinh viên độc lập suy nghĩ, tự do nghiên
cứu, khám phá.
Thứ ba, phải tạo ra một môi trường tự
do học thuật, môi trường văn hóa trong
trường đại học. Muốn làm được điều này
cần khuyến khích sinh viên nghiên cứu
khoa học. Nghiên cứu là đi tìm. Chỉ khi đi
tìm người ta mới có nhu cầu về tự do, tự do
suy nghĩ, tự do tìm kiếm, tự do được viết ra
những điều mình khám phá. Nghiên cứu
khoa học là cơ hội để hình thành ý thức về
tự do sáng tạo và bản lĩnh của người trí
thức. Muốn sinh viên trở thành người trí
thức, phải cho sinh viên được sống trong
môi trường trí thức, môi trường văn hóa.
Trường đại học của chúng ta hiện nay chưa
có được đầy đủ tính chất của môi trường ấy.
Cuối cùng, về phương diện quản lí vĩ
mô, nên tách đào tạo cao đẳng và cao đẳng
nghề ra khỏi giáo dục đại học, hợp nhất với
hệ thống trung cấp chuyên nghiệp và trung
cấp nghề thành khối giáo dục chuyên
nghiệp. Đó cũng là một cách để giáo dục
đại học trở nên “thuần túy” đại học hơn,
góp phần nâng cao tính đại học của trường
đại học.
Đổi mới nhận thức về sứ mạng của
giáo dục đại học không phải là vấn đề dễ
dàng, bởi vì nó gắn liền với nhận thức, mà
nhận thức thường có xu hướng bảo thủ,
chậm thay đổi. Cái khó nữa còn nằm ở chỗ,
đổi mới nhận thức về sứ mạng của đại học
không phải chỉ là công việc nội bộ riêng
của ngành giáo dục. Nó phụ thuộc rất nhiều
từ trên và từ bên ngoài, muốn làm được
phải có sự chấp nhận từ trên và sự
đồng thuận từ bên ngoài. Tuy nhiên, những
tranh luận về triết lí có con đường của nó
mà những đổi mới thực tiễn cũng có
con đường riêng của mình. Bằng cách đổi
mới triệt để chương trình và nội dung
giảng dạy, phương pháp giảng dạy và
học tập, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và
thúc đẩy tự do học thuật theo hướng nêu
trên, trường đại học cũng có thể từng bước
thực hiện được sứ mạng của mình mà có
thể không cần vượt qua những tranh cãi về
sứ mạng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh:
1. Harvard Kennedy School Vietnam Program (2010), “Beyond the Apex: Toward a
System Level Approach to Higher Education Reform in Vietnam.” Retrieved
from
2. Hayden, Martin and Dao Van Khanh (2010). “Private Higher Education in
Vietnam,”’ in Harman, G, Hayden, M and Nghi, P.T. (eds), Reforming Higher
Education in Vietnam: Challenges and Priorities, Springer, Dordrecht, Netherlands,
215-225.
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
79
3. Horn, Michael (2014, March 4). “Intel Integrates Backward To Improve
Vietnamese Education.” Forbes. Retrieved from
improve-vietnamese-education-society
4. McCornac, Dennis (2012). “The Challenge of Corruption in Higher Education: The
Case of Vietnam. Asian Education and Development Studies, Volume 1 No. 3, 262
– 275.
5. Ozturk, Ilhan (2001). “The Role of Education in Economic Development: A
Theoretical Perspective.” Journal of Rural Development and Administration, Vol.
XXXIII, No. 1, 39-47. S
6. Pham, Hiep (2014). “Aiming for at Least One World-Class University by 2020.”
University World News. Retrieved from
article.php?story=20140122154945702
Tiếng Việt:
1. Edgar Morin, Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, NXB Tri thức, Hà
Nội 2008
2. Hồ Ngọc Đại, Nghiệp vụ sư phạm, NXB ĐH Sư phạm, Hà Nội 2009
3. J.J.Rousseau, Emile hay là về giáo dục, NXB Tri Thức, Hà Nội 2008
4. John Dewey, Dân chủ và giáo dục, NXB Tri thức, Hà Nội 2008
5. Lê Ngọc Trà, Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội 2008
6. Nicolas Sarkozy (Tổng thống Pháp), Thư gửi các nhà giáo nhân ngày khai trường,
4/9/2007, Phạm Toàn dịch. Văn bản nguồn http//media.education.gouv.fr
* Nhận bài ngày: 27/5/2014. Biên tập xong: 5/6/2014. Duyệt bài: 12/6/2014.