Tóm tắt. Trong xu thế đổi mới quá trình đào tạo hiện nay, mỗi trường sư phạm đều
có các giải pháp nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy, hướng tới mục đích là nâng
cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông. Tuy nhiên, có thể đánh giá rằng, phương pháp dạy học ở các trường sư phạm
vẫn chưa bám sát với thực tiễn dạy học ở bậc phổ thông, chưa thực sự đáp ứng yêu
cầu thực tế đặt ra. Tức là vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học
sư phạm chưa được đặt ra một cách bài bản và nghiêm túc. Từ thực tế đó, bài viết
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp có thể ứng dụng trong trường sư phạm nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học, góp phần vào việc thúc đẩy công cuộc đổi mới
phương pháp dạy học ở trường sư phạm đúng với chức năng và vị trí "máy chủ"
của nó.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học sư phạm – Từ lý thuyết đến thực hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci. 2012, Vol. 57, No. 9, pp. 165-172
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC HÀNH
Trương Thị Bích
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
E-mail: bichnxbgd@gmail.com
Tóm tắt. Trong xu thế đổi mới quá trình đào tạo hiện nay, mỗi trường sư phạm đều
có các giải pháp nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy, hướng tới mục đích là nâng
cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông. Tuy nhiên, có thể đánh giá rằng, phương pháp dạy học ở các trường sư phạm
vẫn chưa bám sát với thực tiễn dạy học ở bậc phổ thông, chưa thực sự đáp ứng yêu
cầu thực tế đặt ra. Tức là vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học
sư phạm chưa được đặt ra một cách bài bản và nghiêm túc. Từ thực tế đó, bài viết
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp có thể ứng dụng trong trường sư phạm nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học, góp phần vào việc thúc đẩy công cuộc đổi mới
phương pháp dạy học ở trường sư phạm đúng với chức năng và vị trí "máy chủ"
của nó.
Từ khóa: Đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới giáo dục, lý luận dạy học.
1. Mở đầu
Có một nghịch lí: Hiện nay, trong khi các trường phổ thông (PT) đã biết quan tâm
và hưởng ứng công cuộc đổi mới phương pháp dạy - học (PPDH) nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục thì ở hầu hết các trường đại học sư phạm – nơi được mệnh danh là “máy
cái”, “máy chủ” thì vẫn chưa khởi động điều này một cách đồng bộ. Hệ quả tất yếu là
sinh viên tốt nghiệp ra trường (để hành nghề dạy học) đều phải tự mình với điểm vạch
xuất phát "bơi" trong "bể" kiến thức thực tế nhằm tiếp cận phương pháp dạy học mới đang
được triển khai ở trường PT. Vấn đề đặt ra: đã đến lúc các giảng viên của trường đại học
sư phạm phải thực sự quan tâm đến sản phẩm giáo dục của mình. Muốn sinh viên sư phạm
về trường PT có thể thực thi vững vàng các điểm căn cốt của lí luận dạy học hiện đại như
dạy học hướng vào người học, dạy học lấy người học làm trung tâm thì trong trường sư
phạm họ phải là trung tâm, là chủ thể của sự học. Người thầy dạy đại học trước hết phải
là tấm gương, tiên phong trong việc đổi mới cách học, đổi mới cách dạy học.
165
Trương Thị Bích
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Vài nét về đổi mới phương pháp dạy học và tầm quan trọng của đổi
mới phương pháp dạy học trong trường ĐHSP
2.1.1. Vài nét về đổi mới PPDH
Tích cực hoá hoạt động học tập của người học là tư tưởng, là mục đích của quá trình
đổi mới PPDH. Người học phải được đặt ở vị trí trung tâm của hoạt động dạy - học. Với
PPDH truyền thống, vị trí trung tâm là người thầy với vai trò truyền thụ tri thức, trình bày
tri thức. Với PPDH mới, người học được đặt trước không phải là những bài giảng, những
kiến thức có sẵn mà là những vấn đề, những tình huống của thực tế cuộc sống. Người học
rèn luyện cách tự lực giải quyết vấn đề, tự tìm ra cái chưa biết, tự tìm ra chân lý. "Người
thầy bình thường chỉ biết truyền đạt chân lý. Người thầy giỏi chủ yếu dạy cách tìm ra chân
lý" [1]. Và "được học theo phương pháp tích cực, từ năm học này đến năm học khác, qua
biết bao nhiêu lần làm để học, tìm hiểu giải quyết vấn đề, xử lý tình huống, chắc chắn
HS làm, biết cách làm, cách học, cách giải quyết vấn đề, cách ứng xử thích nghi với cuộc
sống. "Làm" dần dần trở thành "biết làm" và cuối cùng muốn tồn tại và phát triển trong
cộng đồng như một con người tự chủ, năng động và sáng tạo" [2].
Với dạy học tích cực hoá, người học thực sự là nhân vật trung tâm trong quy trình
dạy và học. Một số tác giả đã nêu lên những dấu hiệu đặc trưng của tư tưởng "lấy người
học làm trung tâm" [2] như sau:
- Thừa nhận, tôn trọng, hiểu, đồng cảm với nhu cầu, mục đích, lợi ích cá nhân của
người học. Đạt được độ tin cậy, tạo sức thu hút, thuyết phục, kích thích động cơ bên trong
của người học.
Điều này không xảy ra trong PPDH truyền thống: người học thụ động, tự ti, bé nhỏ
trước người dạy. Chính sự thừa nhận, tôn trọng này đã tạo được niềm tin, "tạo sức thu hút,
thuyết phục, kích thích động cơ bên trong” của người học.
- Dựa vào kinh nghiệm của người học, khai thác kinh nghiệm đó, dồn thành sức
mạnh trong quá trình tự khám phá.
Trong quá trình khám phá, chiếm lĩnh tri thức mới, người học không phải bắt đầu
bằng con số không. Kiến thức được hình thành từ trước, được thu nhận, tích luỹ từ các
hoạt động bên ngoài xã hội đã trở thành dạng tiềm năng. Đây chính là nền tảng, là cơ sở
để người dạy hướng dẫn người học một cách có hiệu quả nhất khi chiếm lĩnh một tri thức
mới. Biết khai thác kinh nghiệm sẵn có của người học, từ những kinh nghiệm đó để người
học khám phá, chiếm lĩnh tri thức mới là cả một tài năng của người dạy.
- Chống gò ép, ban phát, giáo điều; nuôi dưỡng tính sẵn sàng, tích cực của người
học để đạt mục đích học tập và phát triển cá nhân.
Dạy học gò ép, ban phát, giáo điều là kiểu dạy học quyền uy của người thầy và sự
166
Đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học Sư phạm - từ lý thuyết đến thực hành
tiếp nhận thụ động của người học. Kiến thức thầy đưa ra phải luôn đúng, người học chỉ
biết chấp nhận và cố mà hiểu. Cách học này đã làm thui chột tính độc lập, tích cực trong
chiếm lĩnh tri thức mới của người học. Người học không dám bày tỏ ý kiến riêng của
mình. Giữa thầy và trò đã có một khoảng cách tâm lý. Sự bình đẳng, đồng cảm không xuất
hiện. Khi ấy kiến thức đến với người học là kiến thức "sống", "sượng", nó có thể ra khỏi
trí não người học bất cứ lúc nào bởi nó không phải là sản phẩm nhận thức của người học
qua hoạt động tư duy. Chống gò ép, ban phát, giáo điều cũng chính là nuôi dưỡng tính sẵn
sàng, tính tích cực của người học.
- Phương thức hoạt động chỉ đạo là tự nhận thức, tự phát triển, tự thực hiện, tự kiểm
tra, đánh giá, tự hoàn thiện trong môi trường được bảo đảm quyền lựa chọn tối đa của
người học.
Trong quá trình dạy học, phải đặt người học trong vai trò chủ động, tự lực và tự
giác: tự lực, tự giác trong nhận thức và trong kiểm tra đánh giá. Giúp người học ý thức
được nhiệm vụ phải giải quyết, cụ thể là phải tiếp nhận kiến thức mới, tự đánh giá được
khả năng của bản thân đã là một nửa thành công của quá trình dạy học.
- Tối đa hoá sự tham gia của người học, tối thiểu hoá sự can thiệp, áp đặt của
người dạy.
Tối thiểu hoá sự can thiệp, áp đặt của người dạy không có nghĩa là hạ thấp vai trò
của người dạy, coi người dạy càng ít tham gia vào hoạt động dạy học càng tốt. Ở đây phải
luôn xác định công việc của người dạy là sự định hướng, tổ chức những thao tác dạy học
để từ đó, bằng các hoạt động của mình, người học sẽ tự lĩnh hội tri thức. Vai trò của người
dạy tưởng như sẽ "khiêm nhường hơn" nhưng thực ra đã được nâng cao rất nhiều để có
thể đáp ứng yêu cầu cũng như nhu cầu của người học.
Tối đa hoá sự tham gia của người học không đồng nghĩa với việc suốt cả giờ dạy
học người học phải làm việc liên tục. Không nên đánh giá hiệu quả giờ dạy học thông qua
số lần giơ tay, số lần phát biểu ý kiến của người học. Bởi những câu trả lời ấy còn phụ
thuộc vào chất lượng câu hỏi của người dạy. Nếu câu hỏi chỉ ở mức độ tái hiện, liệt kê thì
câu trả lời cũng chỉ ở mức độ liệt kê. Ngược lại, có những giờ dạy với những khoảng lặng
nhất định vẫn là những giờ học khai thác rất tốt tính độc lập, tích cực của người học.
- Tạo cho người học tính năng động cải biến hành động học tập, chủ động, tự tin.
Thực ra, đây là hệ quả tất yếu của các dấu hiệu trên, khi tạo ra vai trò bình đẳng
trong quan hệ dạy học giữa người dạy và người học, khi chống gò ép, ban phát, giáo điều,
khi tối đa hoá sự tham gia của người học, tối thiểu hoá sự áp đặt, can thiệp của người dạy
có nghĩa là người dạy đã tạo cho người học tính năng động cần thiết, tính chủ động, tự tin.
- Hết sức coi trọng vai trò to lớn của kỹ năng.
Từ những kiến thức được trang bị, người học có khả năng vận dụng chúng vào thực
tế. Khả năng vận dụng đó gọi là kĩ năng. Kĩ năng đạt đến mức thuần thục trở thành kĩ xảo.
167
Trương Thị Bích
Năng lực được hình thành trên cơ sở tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Giỏi kỹ năng để hiểu hơn
lý thuyết, ngược lại, nắm vững lý thuyết sẽ góp phần giỏi kỹ năng. Hình thành năng lực
phải bắt đầu, phải xuất phát, phải coi trọng vai trò cơ sở, nền tảng của tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo.
Trên đây là các dấu hiệu đặc trưng cho tư tưởng "lấy người học làm trung tâm" trong
giáo dục. Thực chất đây là quá trình:
- Tự tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kỹ xảo, tạo ra các cầu nối nhận thức trong tình
huống học.
- Tự học, tự nghiên cứu thông qua sự hợp tác với bạn bè và sự hướng dẫn của
người dạy.
Việc dạy học nói trên là dạy học tích cực, lấy việc học của người học làm trung tâm,
đây là quá trình "biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, biến quá trình dạy
học thành quá trình tự học". Bởi trong bất cứ một con người nào đều tiềm ẩn một một
nguồn lực quý giá, đó là năng lực tự tìm tòi, nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực tiễn, đó
là năng lực tự học sáng tạo.
2.1.2. Về tầm quan trọng của đổi mới PPDH trong trường ĐHSP
Về vấn đề này, người viết không bàn luận, chỉ xin được trích nguyên văn một số ý
kiến của các nhà quản lí, các nhà khoa học hiện đang công tác trong các trường ĐHSP:
- "Cần tiến hành một cuộc cách mạng thật sự về phương pháp dạy học ở các trường
PT, nhưng phải bắt đầu đổi mới từ các trường Cao đẳng và ĐHSP" và "Chỉ khi thực hiện
theo hướng phát huy cao độ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, xóa bỏ triệt để lối
học cho SV "bú mớm" kiến thức của thầy, chúng ta mới có thể nói đến hiệu quả đổi mới
phương pháp đào tạo ở các trường sư phạm" (GS.TS. Phan Ngọc Liên - ĐHSP Hà Nội).
- "Nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, triển khai trong
các trường sư phạm và PT là vấn đề sống còn của ngành sư phạm" (PGS.TS. Nguyễn Văn
Bính - ĐHSP Hà Nội). Từ ý kiến này, tác giả phân tích: chỉ có đổi mới phương pháp đào
tạo từ các trường sư phạm mới đào tạo ra những sinh viên có chất lượng cao cung cấp
cho ngành giáo dục những người có khả năng làm nòng cốt cho các trường PT về đổi mới
phương pháp dạy học. Các trường sư phạm cũng là nơi giữ vai trò nòng cốt trong việc đào
tạo lại và bồi dưỡng giáo viên PT, nghiên cứu xuất bản các tài liệu hướng dẫn đổi mới
phương pháp dạy học và đánh giá chất lượng giáo dục PT.
- "Đổi mới phương pháp dạy học bậc đại học là một yêu cầu tất yếu, rất quan trọng
để "chấn hưng giáo dục theo mệnh lệnh cuộc sống" (Theo Việt báo - Tuổi trẻ).
- "Trong quá trình tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, thiết nghĩ khâu đột phá
phải bắt đầu từ các trường sư phạm. Vai trò của các trường sư phạm phải là: máy cái cho
sự đổi mới phương pháp dạy học. . . Phương pháp dạy học ở các trường sư phạm có ảnh
hưởng rất lớn, nếu không nói là quyết định đến phương pháp dạy học ở trường PT. Nếu
168
Đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học Sư phạm - từ lý thuyết đến thực hành
ở trường sư phạm, sinh viên có điều kiện tiếp cận với phương pháp dạy học thích hợp thì
đến lượt họ, khi là giáo viên PT mới có thể sử dụng được các phương pháp đó vào công
tác giảng dạy của mình" (Theo Tuổi trẻ).
2.2. Đôi nét thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp về đổi mới
phương pháp dạy học trong trường ĐHSP
2.2.1. Đôi nét thực trạng
Đoàn khảo sát thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kì năm 2006 có phần
nhận xét về phương pháp dạy và học đại học của Việt Nam như sau:
- Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào bài thuyết trình và ít
sử dụng các kĩ năng học tích cực, kết quả là ít có sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên
trong và ngoài lớp học.
- Quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh
vào việc học khái niệm hoặc ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả
là học hời hợt thay vì học chuyên sâu.
- Sinh viên học một cách thụ động (nghe diễn thuyết, ghi chép, nhớ lại những thông
tin đã học thuộc lòng khi làm bài thi).
Tác giả Ngô Tứ Thành, Học việc Công nghệ Bưu chính viễn thông đã bình luận
thêm : "Giảng dạy đại học phổ biến nhất vẫn là sử dụng bảng viết phấn cỡ lớn, hoặc nếu
sử dụng máy tính sẽ là các slide đầy chữ trình chiếu để sinh viên ghi chép lại. Một thực tế
là các trường PT hiện nay đang phát động rầm rộ phong trào đổi mới phương pháp giảng
dạy, còn các trường đại học vẫn "án binh bất động". Do vậy, phương pháp dạy ở các trường
đại học của ta hiện nay vẫn giống như cách dạy ở các trường PT "cấp 4" (!). Sinh viên đại
học chỉ là những "thợ chép": Thầy nói gì, viết gì trên bảng thì cứ việc cặm cụi chép vào
cuốn vở trở thành cẩm nang duy nhất cho thi cử và thậm chí cả cho việc hành nghề sau
này. Dĩ nhiên học thụ động sẽ sản sinh ra những nhà "trí thức" thụ động, chỉ đâu đánh đấy
cũng chưa xong chứ nói gì đến nghiên cứu, sáng tạo" (Theo Diễn đàn Dân trí).
Đây cũng chính là bức tranh dạy – học trong các trường Đại học sư phạm.
Người viết bài này đã có dịp trao đổi với sinh viên K.59 một số khoa như khoa Việt
Nam học, khoa Sư phạm Kĩ thuật, khoa Ngữ văn, khoa Địa lí thuộc trường ĐHSP Hà Nội.
Hầu hết các sinh viên được hỏi về cách dạy của các giảng viên trên lớp đều cho rằng các
thầy cô nói quá nhiều, không có sự giao hòa, tương tác với sinh viên. Không khí tiết học
vì thế mà trở nên căng thẳng, nặng nề. Giữa sinh viên và giảng viên có khoảng cách, sinh
viên rất ngại phát biểu, ngại nói, ngại bộc lộ chính kiến, kể cả những em biết lẫn em không
biết phương án trả lời. Một số thầy cô dùng máy tính chỉ để thay thế cho việc sử dụng giáo
án viết tay. Nếu có thầy cô nào sử dụng máy chiếu thì sinh viên lại càng khó ghi chép,
nhiều khi chỉ để nhìn cho vui mắt.
169
Trương Thị Bích
2.2.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc chậm triển khai đổi mới phương pháp dạy học
ở trường sư phạm. Xin nêu ra một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nhà trường sư phạm chưa có một chủ trương lớn với những chế độ, chính sách cụ
thể, phù hợp cho hoạt động này. Vì vậy mà giảng viên chưa có động lực để cố gắng. Người
làm tốt cũng như người không làm.
- Đội ngũ giảng viên có năng lực, giàu kinh nghiệm còn thiếu.
- "Hiện nay các trường sư phạm không có tính cạnh tranh nên không có động lực
phấn đấu, các trường hoạt động còn mang nặng tính bao cấp, trường được cấp kinh phí
tổ chức đào tạo còn chất lượng sinh viên ra trường hầu như không phải chịu trách nhiệm"
(PGS. TS. Nguyễn Văn Bính).
- Giảng viên đại học dường như tự cho mình "quyền" không phải quan tâm đến đổi
mới phương pháp dạy học, cho đó là việc nhỏ, là công việc của giáo viên PT. Dạy đại học
phải "nhiều chữ", phải "hàn lâm", phải có kiến thức uyên bác.
- Chất lượng dạy học của giảng viên trong trường sư phạm đang được "thả nổi",
không được kiểm tra, đánh giá, xếp loại.
- Một bộ phận sinh viên chưa bắt nhịp, chưa hào hứng hay có thể nói là còn rất ngại
đổi mới phương pháp học tập. Nguyên nhân là các bạn chưa thoát khỏi được phương pháp
học truyền thống đã bị gò ép vào khuôn mẫu từ hồi học PT nên thiếu khả năng độc lập tư
duy, sáng tạo và kỹ năng tiếp nhận tri thức. Điều các bạn lo lắng là thi cử và điểm số.
2.2.3. Một số giải pháp
- Giảm giờ học trên lớp, tăng cường các hoạt động: làm việc nhóm, thực hành, đọc
tài liệu, hoàn thành các bài tập lớn, bài thu hoạch,. . .
Phương pháp dạy học theo nhóm đáp ứng tốt mục tiêu phát huy cao độ tính tích cực
học tập của sinh viên; rèn luyện cho sinh viên khả năng phát biểu trước đám đông, biết
sống trong tập thể, biết nghe người khác nói.
- Giảm giờ học trên lớp không có nghĩa là giảng viên sẽ "nhàn" hơn. Ngược lại,
giảng viên phải chọn lọc kiến thức trọng tâm, biết tổ chức, hướng dẫn sinh viên phương
pháp tự học, tự nghiên cứu và tiếp cận tri thức, đồng thời giải đáp những vấn đề mà sinh
viên đưa ra. Thực tế, đây là công việc không phải giảng viên nào cũng làm được nếu
không nỗ lực và tự tin. Phương pháp này có ưu điểm: giảng viên tránh được kiểu đọc -
chép, sinh viên được tôn trọng và được thật sự đề cao vai trò chủ thể nhận thức khi các em
được quyền hỏi, tranh luận bình đẳng với giảng viên.
- Phải linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học. Chúng ta phê phán lối
dạy học đọc - chép nhưng cũng không ủng hộ kiểu dạy học chỉ phát vấn, hỏi - đáp trong
suốt cả tiết học một cách máy móc và cho đó là đổi mới phương pháp dạy học. Chúng
170
Đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại học Sư phạm - từ lý thuyết đến thực hành
ta kêu gọi phương pháp dạy học gợi mở, trao đổi hai chiều giữa người học và người dạy
nhưng cũng không nên nghĩ rằng việc độc thoại một chiều là không đổi mới. Phải biết kết
hợp các phương pháp tùy vào nội dung bài học, tùy vào đối tượng người học, luôn gắn với
mục đích đảm bảo tính hệ thống của bài học, làm thế nào để khơi gợi hứng thú, sự tò mò,
ham muốn đào sâu, suy nghĩ độc lập, phát triển óc phê phán,. . . của người học.
- Ứng dụng công nghệ thông tin và các phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình
đào tạo. Không phủ nhận vai trò hỗ trợ quan trọng của các phương tiện dạy học hiện đại
trong quá trình đào tạo nói chung và quá trình đổi mới phương pháp dạy học nói riêng.
Tuy nhiên, giảng viên không nên lạm dụng điều này bởi nếu không sẽ rất dễ biến giờ học
thành giờ "biểu diễn" kiến thức. Như vậy, giảng viên tránh được lối dạy học đọc - chép
nhưng lại "cung cấp" cho sinh viên một lối học mới: lối học nhìn - chép.
- Trường đại học phải quan tâm nhiều hơn đến những đề tài nghiên cứu đổi mới
phương pháp dạy học. Những đề tài này phải xuất phát từ thực tế nhà trường Việt Nam với
tình hình cơ sở vật chất, trình độ, đặc điểm tâm lý của người dạy, người học Việt Nam. Có
như vậy, các biện pháp đưa ra mới có tính khả thi. Phải tìm cách đưa kết quả nghiên cứu
ấy ứng dụng vào thực tế trường học, từng bước thực hiện và rút kinh nghiệm.
- Phải gắn kết chặt chẽ trường ĐHSP với trường PT, tạo điều kiện cho giảng viên
nắm được thực tế PT, nắm được đặc điểm tâm lí học sinh PT, để từ đó có định hướng trong
việc chọn lọc kiến thức cũng như phương pháp phù hợp cho bài giảng của mình. Muốn
làm được điều này, phải tăng cường thời gian thực tập sư phạm tại trường PT.
- Xây dựng các đơn vị chuyên trách đổi mới phương pháp dạy học trong trường đại
học nhằm hỗ trợ cho giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy hiệu quả. Thực tế trong
trường ĐHSP, chưa có một đơn vị nào được giao nhiệm vụ này. Chính vì vậy mà việc đổi
mới phương pháp dạy học trong trường sư phạm diễn ra manh mún, tự phát, tập trung vào
một số giảng viên có ý thức đổi mới, sáng tạo. Đơn vị chuyên trách này sẽ là đầu mối cho
việc kiểm định và ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học về đổi mới phương pháp dạy
học, là đầu mối giúp nhà trường triển khai và đánh giá hoạt động đổi mới dạy học của các
giảng viên.
- Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá. Đổi mới cách dạy, cách học phải tiến hành song
song với việc đổi mới cách kiểm tra, đánh giá. Có như vậy, sinh viên mới "yên tâm" hào
hứng ủng hộ giảng viên trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Nếu như điều
này ở bậc học PT còn nhiều bất cập: đổi mới nội dung dạy học nhưng đề kiểm tra, đánh
giá còn mang tính truyền thống. Nguyên nhân là người ra đề chưa bắt nhịp kịp, chưa mạnh
dạn với việc đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá. Ở trường đại học điều này thuận lợi hơn.
Người dạy và người ra đề kiểm tra, đánh giá là một. Giảng viên soạn nội dung dạy và cũng
chính giảng viên ra đề. Đây là một ưu thế lớn của giảng viên đại học nếu triển khai dạy
học theo phương pháp đổi mới.
171
Trương Thị Bích
3. Kết luận
Từ bản chất của dạy học theo phương pháp đổi mới, từ bức tranh phác thảo về thực
trạng hoạt động này trong trường đại học, từ việc mạnh dạn chỉ ra một số nguyên nhân,
có thể nói, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học nói chung và
trong trường đại học sư phạm nói riêng còn rất nhiều trăn trở. Thiết nghĩ, đã đến lúc, dẫu
có muộn màng, các nhà quản lý giáo dục trong các trường sư phạm phải "vào cuộc", phải
bắt đầu cho việc khởi động công cuộc đổi mới phương pháp dạy học một cách toàn diện
và đồng bộ, để xứng với môi trường đại học giảng dạy và nghiên cứu "nói" và "làm" luôn
song hành với nhau. Hi vọng trong một thời gian không xa, m