I. Những thách thức trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy khi
chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ.
Những thách thức trong quá trình chuyển đổi sang đào tạo theo học chế
tín chỉ tại Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh cũng là những thách thức chung
mà các trường Đại học trong cả nước phải trải qua trong quá trình chuyển đổi.
Thực tế cho thấy mặc dù về nhận thức, chúng ta thừa nhận chuyển đổi việc Đào
tạo theo học chế tín chỉ là xu thế có tính tất yếu và từ năm 1988, theo chủ
trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhiều trường Đại học Việt Nam đã áp dụng
những tiêu chuẩn của học chế tín chỉ một cách mềm dẻo, kết hợp niên chế theo
học phần-đơn vị học trình. Nhưng đến nay, những khó khăn vẫn còn rất nhiều ở
phía trước với các trường đang quyết tâm chuyển đổi.
Có thể thấy, mặc dù ĐH Bách khoa Tp Hồ Chí Minh từ năm học 1993-
1994, trường ĐH Đà Lạt từ năm học 1994-1995 và một số khá đông các trường
ĐH khác ở cả ba miền đã bắt đầu áp dụng học chế học phần-đơn vị học trình
một cách triệt để hơn, gần với hệ thống tín chỉ hơn, nhưng cho đến nay, thực
chất vẫn chưa có trường nào xây dựng được mô hình hoàn thiện về đào tạo theo
tín chỉ mà mới đang ở mức “tiệm cận”.
Có rất nhiều lý do để chúng ta chưa có được học chế tín chỉ theo đúng
nghĩa mà chỉ “ na ná” tín chỉ, hay nói như một chuyên gia nhận xét: “Về cơ bản
học chế của giáo dục đại học Việt Nam (GDĐH VN) đang áp dụng nhiều yếu
tố của hệ thống tín chỉ (credit system) của GDĐH thế giới”- nghĩa là “tín chỉ”
của các trường đang áp dụng hiện nay chưa thực sự hoàn chỉnh. Nguyên nhân
thì rất nhiều, đó có thể là do: sự chần chừ của các cấp lãnh đạo, sự thiếu thốn
cơ sở vật chất, thậm chí là sự thiếu chủ động cả về phía SV lẫn giáo viên 
Những khó khăn có tính tổng thể đó cũng chính là những thách thức mà
Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh phải vượt qua trong giai đoạn chuyển đổi
sang đào tạo theo hệ tín chỉ. Trong phạm vi tham luận này, chúng tôi tập trung
vào vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học- đó là một trong những thách thức
căn bản nhưng cũng là chìa khóa mở cửa để chuyển sang đào tạo theo hệ tín
chỉ.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
11 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp dạy và học tại đại học luật thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 8
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC TẠI ĐẠI HỌC 
LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ 
TRÌNH CHUYỂN SANG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN 
CHỈ. 
 Đại học luật TP Hồ Chí Minh 
I. Những thách thức trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy khi 
chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ. 
Những thách thức trong quá trình chuyển đổi sang đào tạo theo học chế 
tín chỉ tại Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh cũng là những thách thức chung 
mà các trường Đại học trong cả nước phải trải qua trong quá trình chuyển đổi. 
Thực tế cho thấy mặc dù về nhận thức, chúng ta thừa nhận chuyển đổi việc Đào 
tạo theo học chế tín chỉ là xu thế có tính tất yếu và từ năm 1988, theo chủ 
trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhiều trường Đại học Việt Nam đã áp dụng 
những tiêu chuẩn của học chế tín chỉ một cách mềm dẻo, kết hợp niên chế theo 
học phần-đơn vị học trình. Nhưng đến nay, những khó khăn vẫn còn rất nhiều ở 
phía trước với các trường đang quyết tâm chuyển đổi. 
Có thể thấy, mặc dù ĐH Bách khoa Tp Hồ Chí Minh từ năm học 1993-
1994, trường ĐH Đà Lạt từ năm học 1994-1995 và một số khá đông các trường 
ĐH khác ở cả ba miền đã bắt đầu áp dụng học chế học phần-đơn vị học trình 
một cách triệt để hơn, gần với hệ thống tín chỉ hơn, nhưng cho đến nay, thực 
chất vẫn chưa có trường nào xây dựng được mô hình hoàn thiện về đào tạo theo 
tín chỉ mà mới đang ở mức “tiệm cận”. 
Có rất nhiều lý do để chúng ta chưa có được học chế tín chỉ theo đúng 
nghĩa mà chỉ “ na ná” tín chỉ, hay nói như một chuyên gia nhận xét: “Về cơ bản 
học chế của giáo dục đại học Việt Nam (GDĐH VN) đang áp dụng nhiều yếu 
tố của hệ thống tín chỉ (credit system) của GDĐH thế giới”- nghĩa là “tín chỉ” 
của các trường đang áp dụng hiện nay chưa thực sự hoàn chỉnh. Nguyên nhân 
thì rất nhiều, đó có thể là do: sự chần chừ của các cấp lãnh đạo, sự thiếu thốn 
cơ sở vật chất, thậm chí là sự thiếu chủ động cả về phía SV lẫn giáo viên 
Những khó khăn có tính tổng thể đó cũng chính là những thách thức mà 
Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh phải vượt qua trong giai đoạn chuyển đổi 
sang đào tạo theo hệ tín chỉ. Trong phạm vi tham luận này, chúng tôi tập trung 
vào vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học- đó là một trong những thách thức 
căn bản nhưng cũng là chìa khóa mở cửa để chuyển sang đào tạo theo hệ tín 
chỉ. 
1.1. Thách thức đối với người dạy trong việc đổi mới phương pháp giảng 
dạy khi chuyển sang đào tạo theo HCTC. 
 9
Để chuyển đổi sang học chế tín chỉ, yêu cầu hàng đầu là phải đổi mới 
phương pháp dạy, học theo “ 3C: Giáo viên chỉ hướng dẫn SV cách học, tăng 
cường hơn nữa quyền chủ động của SV và khai thác tối đa ứng dụng công nghệ 
thông tin và truyền thông vào nhà trường”. 
Với nhiều trường đại học, yêu cầu này của học chế tín chỉ (HCTC) là 
một thách thức lớn đối với người dạy vì không ít giáo viên lâu nay vẫn giảng 
dạy theo phương pháp truyền thống là thuyết trình, không quen với công nghệ 
thông tin, không biết cách làm lớp học trở nên sinh động và không động viên 
được người học. Chuyển sang HCTC, một bộ phận không nhỏ giáo viên phải 
bắt đầu cập nhật những kiến thức căn bản về sử dụng các phương pháp giảng 
dạy hiện đại như sử dụng thuần thục hệ thống đèn chiếu, hệ thống âm thanh, 
ánh sáng cho lớp học, sử dụng công nghệ thông tin để xử lý phim, hình có tính 
minh họa cho các bài giảng luậtđây là trở ngại đầu tiên đối với người dạy. 
Theo HCTC, thời lượng giảng dạy rút ngắn, chỉ có 1/3 thời gian lên lớp 
được giáo viên hướng dẫn, còn lại 2/3 thời gian SV phải tự học, tự nghiên cứu 
tại nhà. Giáo viên phải làm quen với việc gói gọn bài giảng của mình trong 1/3 
thời gian lên lớp và phải tăng cường độ làm việc để chỉ dẫn cho sinh viên tài 
liệu để sinh viên có thể tự đọc ở nhà. Việc này nếu không phải là người có 
chuyên môn giỏi, không dễ gì làm được. Đó là khó khăn thứ 2 với người dạy. 
Thêm nữa, khi chuyển sang hệ tín chỉ, một điều đương nhiên là giảng viên phải 
sẵn sàng “ đương đầu” với những câu hỏi hóc búa của sinh viên sau khi các em 
đã được đọc tài liệu ở nhà. Đặc biệt, trong điều kiện bùng nổ thông tin ngày 
nay, chắc chắn sẽ nhiều điều người học biết mà người dạy chưa biết. Đây chính 
là thách thức đối với các giảng viên trẻ khi mà kinh nghiệm giảng dạy và bề 
dày chuyên môn chưa nhiều, nếu không tích cực trau dồi, sẽ khó có thể đủ tự 
tin để là người “ cầm lái”. 
Với HCTC, vai trò của người thầy là người hướng đạo và chỉ dẫn chứ 
không chú trọng một cách thuần túy vai trò là người quyết định đối với quá 
trình nhận thức của người học. Người dạy phải quá triệt nguyên tắc “Dạy học 
lấy sinh viên làm trung tâm”. Vì thế, giảng viên phải khuyến khích được sinh 
viên, phải biết thừa nhận sự vượt trội của người học, phải khơi dậy được niềm 
đam mê khoa học và thúc giục người học phát huy khả năng của mình. Nếu đã 
rất nhiều năm, người dạy chỉ quen với tư duy áp đặt, chỉ quen với công thức có 
một đáp án, và không thể quen với việc sinh viên nói khác ý mình, thì chuyển 
sang đào tạo theo học chế tín chỉ, giáo viên phải thay đổi toàn bộ tư duy đó, 
thật không dễ dàng chút nào. 
Có thể nói, để nhà trường áp dụng được HCTC, người dạy phải vượt qua 
những thách thức ban đầu này. Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh có trên 
200 giảng viên, trong đó, lực lượng giảng viên trẻ chiếm tỷ lệ rất cao. Chúng 
tôi rất quan tâm đến việc làm thế nào để các giảng viên trẻ có thể nhanh chóng 
khẳng định bản lĩnh chuyên môn của mình trong việc giảng dạy để trường có 
thể nhanh chóng chuyển sang HCTC một cách hiệu quả nhất. 
 10
1.2. Thách thức đối với người học trong việc đổi mới các học theo HCTC. 
Có thể khẳng định, việc chuyển đổi sang đào tạo theo HTTC là rất có lợi 
cho người học. Theo HCTC, đầu mỗi học kỳ, sinh viên được đăng ký các môn 
học thích hợp với năng lực cũng như hoàn cảnh của họ đồn thời cũng phải phù 
hợp với quy định chung nhằm đạt được kiến thức theo một ngành chuyên môn 
chính. Theo HCTC, sự lựa chọn các môn học rất rộng rãi, SV không chỉ học 
các môn chuyên môn của mình mà còn cần học các môn thuộc lĩnh vực khác, 
thậm chí có thể đăng ký những môn học liên ngành nếu muốn. Đào tạo theo tín 
chỉ cho phép ghi nhận kịp thời diễn tiến của quá trình tích lũy kiến thức và kỹ 
năng của người học để lấy được văn bằng. 
HCTC cho phép người học chủ động xây dựng kế hoạch học tập thích 
hợp nhất. Cho phép rút ngắn hoặc kéo dài thời gian học tập đối với riêng bản 
thân họ. Thậm chí HTTC còn cho phép ghi nhận cả những kiến thức và kỹ 
năng tích lũy được ngoài trường lớp trong quá trình tích lũy kiến thức của sinh 
viên. 
 Để có thể được thụ hưởng tất cả những lợi thế trên của HCTC, đòi hỏi 
sinh viên phải là người chủ động. Chủ động trong việc thiết kế lộ trình tích lũy 
kiến thức của mình (bao nhiêu năm, bao nhiêu học kỳ, những môn nào sẽ là 
phù hợp và hữu ích cho mình), chủ động trong việc lựa chọng giảng viên, 
chủ động trong quá trình tiếp thu kiến thức. Với kế hoạch bài giảng mà giảng 
viên sẽ áp dụng trong HCTC, người học phải tăng thời lượng tự học ở nhà với 
khối lượng công việc được giao khác hẳn khi học theo chương trình đào tạo 
theo học phần, phải làm bài tập cá nhân nhiều hơn, làm việc nhóm nhiều hơn. 
Nếu không có tinh thần chủ động, người học không thể thu được kết quả tốt 
nhất. Học sinh và sinh viên Việt nam nói chung, trong đó có sinh viên luật, 
không thoát khỏi những hạn chế của lối tư duy bị động- sản phẩm của nền giáo 
dục truyền thống xem người học là người được ban phát cho kiến thức, là 
những người phải học và phải học theo kiểu “ xin cho” mang nặng tính bao 
cấp. Chính tư duy này là thử thách lớn mà người học nếu tham gia HCTC phải 
tự mình khắc phục, phải cố gắng vượt qua. Có như vậy, họ mới có thể thu xếp 
một chủ động kế hoạch học tập của mình cũng như thực hiện nó một cách hiệu 
quả. 
Bên cạnh đó, theo lý thuyết về HCTC, môi trường học tập mới sẽ có 
nhiều họat động học tập diễn ra ngoài lớp học truyền thống như việc tổ chức 
các buổi thực tập tại tòa án, đến các văn phòng luật sư, diễn án giả định, đến 
tham quan các cơ quan nhà nướccũng là một tác động lớn đến cách tư duy 
của người học theo kiểu thụ động trước đây. Nếu không nhanh chóng thích 
nghi, người học sẽ dễ bị phân tán và không đạt được kết quả như mong muốn. 
 Mặt khác, quy chế đánh giá sinh viên trong HCTC cũng khắt khe hơn, 
chặt chẽ hơn, đòi hỏi sinh viên phải đáp ứng được yêu cầu cao của quy trình 
kiểm tra. 
 11
Có thể nói, sự khác biệt trong việc đo lường các hoạt động giảng dạy 
giữa hệ đào tạo theo học phần và HTTC, những điều chỉnh cho phù hợp với 
những tình huống giảng dạy, sự xói mòn niềm tin về các tiêu chuẩn gốc là 
những thách thức mà cả người học và người dạy sẽ phải vượt qua khi chuyển 
sang đào tạo theo HCTC. 
1.3. Những thách thức đối với người quản lý 
Đặc trưng của HTTC là kiến thức được cấu trúc thành các học phần. 
Quá trình học tập là sự tích lũy kiến thức của người học theo từng học phần 
(đơn vị: tín chỉ) khác với học niên chế. HCTC đòi hỏi phải có một chương 
trình đào tạo với hai đặc điểm cơ bản sau đây: 
(1) Cấu trúc mềm dẻo với nhiều lựa chọn cho phép sinh viên có thể lắp 
ghép các môn học theo mục tiêu nghề nghiệp của mình, bên cạnh đó cho 
phép sinh viên tổ chức việc học tập của mình theo hoàn cảnh cá nhân; 
(2) Sự rõ ràng về mục tiêu đào tạo và khả năng đạt được ở đầu ra (outcome 
learning) trên cơ sở đó có thể thực hiện việc chuyển đổi giữa các trường 
với nhau trong nước cũng như ngoài nước. 
Để tạo điều kiện thuận lợi cho học chế tín chỉ, các trường đại học nói 
chung cũng như trường Đại học luật nói riêng sẽ phải được chủ động về 
chương trình ( chương trình khung cần phải thay đổi phù hợp với các môn học 
theo tín chỉ), chủ động trong tuyển sinh để các môn học có điều kiện được tổ 
chức liên tục. Bộ GD-ĐT vẫn khẳng định, nếu áp dụng theo học chế tín chỉ thì 
các trường sẽ được tổ chức tuyển sinh theo từng học kỳ. Nhưng cho đến nay 
vẫn chưa có một văn bản pháp quy nào cho phép các trường làm như vậy. 
Khi chuyển sang mô hình đào tạo tín chỉ, nhà trường phải hoàn toàn 
quản lý và sắp xếp lịch học cho từng SV trên máy tính, đảm bảo không chồng 
chéo và nhầm lẫn. Với hệ thống máy tính và trình độ tin học của những người 
làm công tác sắp xếp, quản lý hồ sơ SV như hiện nay thì đây không phải công 
việc dễ dàng. 
HCTC bắt buộc các lớp học phải được tổ chức một cách phù hợp với kế 
hoạch bài dạy, đòi hỏi nhà quản ly phải có lịch học đuợc bố trí sắp xếp hợp lý, 
đảm bảo điều kiện môi trường học tập phù hợp với nội dung giảng dạy mà 
giảng viên đã chuẩn bị. Điều đó đòi hỏi người quản lý chương trình phải phối 
hợp chặt chẽ với giảng viên và quản lý sát sao cơ sở vật chất của nhà trường để 
phục vụ công tác giảng dạy một cáhc hiệu quả nhất. 
Nhà trường cũng cần có hệ thống cố vấn học tập hùng hậu để có thể 
thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho sinh viên khi bước vào đào tạo theo HCTC. Lực 
lượng này đòi hỏi phải hiểu biết về chương trình đào tạo, nội dung đào tạo, tâm 
lý người họcPhải chuẩn bị một đội ngũ cán bộ tư vấn với yêu cầu như thế, 
với một trường đang còn thiếu cán bộ giảng dạy như trường chúng tôi, đó cũng 
là một thử thách không đơn giản khi chuyển sang đào tạo theo HCTC. 
 12
II. Những giải pháp để đổi mới phương pháp giảng dạy khi chuyển sang 
đào tạo theo học chế tín chỉ tại đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh 
1. Những giải pháp để chuyển đổi. 
Tiếp thu những nhận thức và tinh thần quyết tâm từ cuộc hội thảo về 
“Đào tạo theo hệ thống tín chỉ: nhận thức và kinh nghiệm triển khai tại các 
trường ĐH CĐ Việt Nam” do Ban Liên lạc các trường ĐH, CĐ Việt Nam 
(VUN) tổ chức trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh đang chủ động tìm 
chọn cho mình những bước hành động cụ thể để triển khai kế họach chuyển 
sang đào tạo theo HCTC. 
1.1. Đổi mới nhận thức về phương pháp giáo dục đại học: 
1. Để áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực phù hợp với đào tạo 
theo HCTC, đều cốt lõi là phải rõ ràng về nhận thức.Người dạy phải rõ ràng về 
các mục tiêu đào tạo và khả năng đạt được ở đầu ra của người học (learning 
outcomes) để làm cơ sở cho việc liên thông và chuyển đổi giữa các trường 
trong nước, khu vực và trên thế giới. Thực tế cho thấy khi chuyển sang đào tạo 
theo HCTC ở một số trường Đại học trong nước thời gian vừa qua, không chỉ 
các nhà quản lý, mà ngay cả các giảng viên cũng thiếu sự thống nhất trong cách 
hiểu về mục tiêu và cách tổ chức đào tạo theo hệ tín chỉ. Vì thế, trường chúng 
tôi xác định việc thống nhất về nhận thức trong mục tiêu và cách thức đào tạo 
trong đội ngũ giảng viên và các nhà quản lý về HCTC là nhiệm vụ hàng đầu. 
Chúng tôi xác định, sự thống nhất này cần được thực hiện trên những 
khía cạnh sau đây: thống nhất định nghĩa thế nào là một tín chỉ (vd: bao nhiêu 
giờ lên lớp, bao nhiêu thời gian tự học vv); thống nhất số lượng tín chỉ cần tích 
lũy để được cấp một loại văn bằng nào đó; thống nhất việc xây dựng đề cương 
môn học, trong đó mục tiêu đào tạo phải được xác định rõ và phải đo lường 
được với các phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau. 
Nếu không thực hiện được sự thống nhất này thì sẽ rất khó cho việc liên 
thông và chuyển đổi giữa các chương trình khác nhau và các đơn vị đào tạo 
luật trong nước và nước ngoài. 
2. Đổi mới nhận thức trong người dạy Coi giáo dục đại học là một thị 
trường. Chúng tôi xác định nhận thức chung là giảng dạy đại học nói chung và 
đào tạo luật nói riêng là công việc phải xuất phát từ nhu cầu xã hội và phục vụ 
cho nhu cầu của xã hội. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo luật hiện nay cũng 
nóng bỏng như sự cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực kinh doanh sôi động khác 
của nền kinh tế. Vì thế, chúng tôi hướng nhận thức của cán bộ , giảng viên đến 
nhận thức chung là hướng tới khách hàng, coi sinh viên là khách hàng để có thể 
cung cấp những kiến thức tốt nhất, những nội dung chương trình phù hợp nhất 
với người học. 
 13
 3. Trang bị kiến thức cho người học về học chế tín chỉ và xây dựng tư 
duy học tập tích cực. Tạo lập tư duy chủ động cho sinh viên ngay từ đầu. 
Triết lý của hệ thống tín chỉ là tôn trọng người học, xem người học là 
trung tâm của quá trình đào tạo. Chính vì thế, hơn ai hết, chủ thể của quyền học 
tập phải là người quyết định. Họ phải quyết định trong việc lựa chọn của mình( 
chương trình học, môn học, người dạy) giống như khách hàng lựa chọn sản 
phẩm mình sẽ mua; chủ động trong việc sắp xếp kế họach học tập của mình và 
chủ động trong việc tự học cũng như tham gia học nhóm. 
Ngay từ những ngày đầu khi sinh viên vào học, nhà trừơng sẽ trang bị 
cho sinh viên nhận thức về đặc trưng của đào tạo theo HCTC, xác định cho SV 
tư duy học tập theo hướng tích cực. Đội ngũ cố vấn sẽ phát huy vai trò tư vấn 
của mình không phải chỉ từ khi sinh viên mới vào trừơng mà là trong suốt quá 
trình học tập của sinh viên. Các giảng viên của năm thứ nhất cũng phải phát 
huy vài trò của mình trong quá trình giảng dạy để phát huy tính tự chủ của 
người học, hình thành tư duy chủ động học tập của SV. 
1.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy 
- Áp dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy 
HCTC hướng đến sự thay đổi lớn phương cách, thói quen dạy - học 
của người dạy lẫn người học. HCTC giảm khối lượng giờ giảng trên lớp, 
khuyến khích sinh viên tự học. Bên cạnh đó, HCTC đòi hỏi môi trường tự học 
với các phương tiện đa dạng hỗ trợ người học như giáo trình đa dạng, website 
điện tử, hệ thống bài tập tình huống, những người trả lời thắc mắc tại bộ môn... 
Để có thể thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy, đáp ứng yêu 
cầu khuyến khích người học tự nghiên cứu, chúng tôi đã xây dựng hệ thống đề 
cương môn học của toàn bộ các môn học trong chương trình đào tạo cử nhân. 
Có thể nói, câu hỏi mà đây đó các trường đã đặt ra là “Liệu có thể đưa sẵn bài 
giảng lên mạng cho SV tham khảo trước được không?”, sẽ không còn là vấn đề 
cần phải băn khoăn nữa. Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã chủ trương đến năm 
2008, các trường phải tiến hành việc đưa giáo án điện tử lên mạng internet để 
người học có điều kiện nghiên cứu. Hệ thống đề cương là tài liệu cần thiết hỗ 
trợ người học tự nghiên cứu trong học chế tín chỉ, chúng tôi cũng đã sẵn sàng 
cho việc cung cấp học liệu cần thiết này cho người học dưới các hình thức giấy 
hoặc điện tử. 
Các giảng viên cũng được tham gia các chương trình tập huấn về giáo án 
điện tử, thiết kế bài giảng bằng Powerpoint và sử dụng hệ thống đèn chiếu 
Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và Trung tâm thông tin thư viện của 
trường cũng tổ chức các đợt bồi dưỡng để nâng cao khả năng khai thác mạng 
internet cho giáo viên và sinh viên. Về căn bản, cho đến nay, đội ngũ giảng 
viên của nhà trường đã được trang bị tương đối tốt các kỹ năng sử dụng công 
nghệ thông tin trong quá trình giảng dạy. Trên thực tế, không ít gảng viên trẻ 
có trang web riêng để tổ chức việc thảo luận cho sinh viên trên mạng. 
 14
- Xây dựng hồ sơ môn học: Nâng cao một bước việc chuẩn bị cho đào tạo 
theo học chế tín chỉ, trường chúng tôi đã tổ chức tập huấn cho các tổ bộ 
môn và triển khai việc xây dựng hồ sơ môn học. Các tổ bộ môn đã lần lượt 
thiết kế và hoàn chỉnh hồ sơ môn học và kế hoạch bài giảng. Trên cơ sở hệ 
thống HSMH được thiết một cách chi tiết và công phu, việc giảng dạy theo 
HCTC chắc chắn sẽ thuận lợi và đảm bảo đúng mục đích. Người học dễ 
dàng nhìn thấy khả năng có thể đạt được sau khi học từng môn học, nhà 
quản lý cũng xác định và kiểm sóat được chất lượng đầu ra của quá trình 
đào tạo ( outcomes learning). Như vậy có thể nói rằng, trường luật đã có 
những giải pháp để vượt qua thách thức quan trọng nhất về chương trình 
trong HCTC. 
- Thực hành tương tác sư phạm trong dạy học: Không phải chỉ khi chuyển 
sang đào tạo theo HCTC, việc dạy và học của chúng ta mới cần xem xét để 
điều chỉnh lại, mà khi chúng ta chủ trương đổi mới giáo dục theo hương hội 
nhập việc đổi mới phương pháp dạy và học là đòi hỏi khách quan. 
Để việc dạy có tính tích cực và hiệu quả hơn, từ năm học 2006-2007, 
trường chúng tôi đã chủ trương buộc giáo viên phải thay đổi phương pháp 
giảng dạy từ phương pháp thầy dạy trò ghi sang việc phải lấy người học làm 
trung tâm. Chúng tôi đã tổ chức tập huấn cho giảng viên về sư phạm tương tác, 
theo đó, giảng viên nhận thấy một cách rõ ràng hơn tương quan giữa mình và 
người học, hiểu được một cách rõ ràng hơn bản chất tự nhiên của quá trình dạy 
học, mọi điều đều bắt đầu và xoay quanh hệ thần kinh nhận thức. Giảng viên 
hiểu được về nguyên lý của bộ máy học, nhận thức được rằng nhu cầu nhận 
thức của người học cần phải được tôn trọng, đó không chỉ là quyền con người 
theo nghĩa pháp lý, mà đó còn là quyền con người theo nghĩa tự nhiên. Người 
dạy vì thế không thể dạy theo lối áp đặt mà tạo các cơ hội tốt để người học có 
thể thực hiện tốt nhất các quyền học tập của mình- được tự do phát triển tư duy, 
được tôn trọng trong quá trình nhận thức và quá trình phát triển nhận thức của 
bản thân. 
Những chương trình sư phạm tương tác mà chúng tôi trang bị cho giáo 
viên chắc chắn sẽ phát huy tác dụng tích cực trong quá trình giảng dạy theo 
HCTC và ngay hiện tại, sự áp dụng nhuần nhuyễn sư phạm tương tác đã rất phù 
hợp cho dù được vận dụng với các đối tượng học khác nhau. 
- Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng tình huống: Đào tạo luật là họat 
động đào tạo mang tính đặc trưng nghề nghiệp rất rõ nét. Người học luật có 
định hướng nghề nghiệp tương đối rõ ràng, chính vì vậy, chúng tôi đang 
hương đến đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng ngành 
nghề. Giảng dạy bằng tình huống đang được coi là điểm quan tâm sâu sắc 
nhất của giảng viên và học viên nhà trường. 
 15
Bên cạnh việc áp dụng tích cực các phương pháp giảng dạy truyền 
thống, nhà trường khuyến khích việc tập trung nghiên cứu và xây dựng hệ 
thống tình huống trong giảng dạy. 
1.3. Thiết kế lại chương trình đào tạo 
Chủ trương của bộ giáo dục và đào tạo về thay đổi chương trình khung 
đã được chúng tôi tiếp thu nhanh chóng thông qua việc chu