Bản báo cáo kiểm lại tình hình dạy tiếng
Việt như một ngoại ngữ ở trong nước và ngoài nước,
đồng thời đề xuất một số điều có thể làm được trong
thời gian tới.
Tác giả lưu ý mọi người nên quán triệt hơn nữa lý
thuyết ngôn ngữ học trong giảng dạy cũng như cần
nắm vững đặc điểm của tiếng Việt để tránh Âu hóa
cách diễn đạt ý tưởng của người Việt. Việc dạy văn hóa
Việt thành một môn học riêng như hiện nay là cần thiết,
nhưng ngoài ra còn phải được dạy gắn liền với cấu trúc
ngôn ngữ. Còn về chiến lược phát triển việc dạy tiếng
Việt như một ngoại ngữ thì có nhiều việc phải làm. Mỗi
giáo viên nên nhận trách nhiệm dạy lâu dài cho một
loại học viên nào đó. Một số giáo viên nên cố gắng dạy
tiếng Việt trong các ngành khoa học kỹ thuật. Các giáo
viên trong một cơ sở đào tạo nên cùng nhau chuẩn bị
nội dung cho một kỳ thi sát hạch tiếng Việt, để tương lai
có thể tổ chức thi cho những người nước ngoài muốn lấy
chứng chỉ công nhận năng lực làm chủ được tiếng Việt.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 167 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đóng góp vào việc dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
486
ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT NHƯ MỘT NGOẠI NGỮ
Đoàn Thin Thut
Tóm t
t: Bản báo cáo kiểm lại tình hình dạy tiếng
Việt như một ngoại ngữ ở trong nước và ngoài nước,
đồng thời đề xuất một số điều có thể làm được trong
thời gian tới.
Tác giả lưu ý mọi người nên quán triệt hơn nữa lý
thuyết ngôn ngữ học trong giảng dạy cũng như cần
nắm vững đặc điểm của tiếng Việt để tránh Âu hóa
cách diễn đạt ý tưởng của người Việt. Việc dạy văn hóa
Việt thành một môn học riêng như hiện nay là cần thiết,
nhưng ngoài ra còn phải được dạy gắn liền với cấu trúc
ngôn ngữ. Còn về chiến lược phát triển việc dạy tiếng
Việt như một ngoại ngữ thì có nhiều việc phải làm. Mỗi
giáo viên nên nhận trách nhiệm dạy lâu dài cho một
loại học viên nào đó. Một số giáo viên nên cố gắng dạy
tiếng Việt trong các ngành khoa học kỹ thuật. Các giáo
viên trong một cơ sở đào tạo nên cùng nhau chuẩn bị
nội dung cho một kỳ thi sát hạch tiếng Việt, để tương lai
có thể tổ chức thi cho những người nước ngoài muốn lấy
chứng chỉ công nhận năng lực làm chủ được tiếng Việt.
Abstract: The important task confronting the
teaching of Vietnamese as a foreign language
(afterwards: VFL) is to overcome the pendulum effect
between linguistic theories and the characteristics of
the Vietnamese language so as not to Westernise
ways of expressing one's ideas. It is necessary to teach
Vietnamese culture as a subject, but it should also be
closely linked with the language structure.
The strategies of teaching VFL integrates various
related processes. It is worth noting that a teacher
should pursue a particular target student for a certain
long period, for example teaching Vietnamese for
specific purposes (afterwards: VSP) dealing with
science students.
In terms of testing, the need for a testing foundation
with carefully guided support and exam focused
practice has been recognised. This allows us to set up
a testing system to assess the foreign test takes'
mastery of Vietnamese proficiency.
Trong xu thế hội nhập quốc tế của nước ta,
tiếng Việt đã đến với nhiều người nước ngoài.
Ngày nay việc dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ
đang phát triển. Tôi xin trình bày một vài ý kiến
đóng góp vào việc phát triển ấy.Tôi không có ảo
tưởng đề cập được đến điều gì to tát mà chỉ xin
xuất phát từ thực tế, đề nghị đôi điều cần khắc
phục để kết quả của việc truyền thụ ngôn ngữ Việt
được tốt hơn cũng như việc gì sắp tới có thể thực
hiện được trong tầm tay.
1/ Tuy nhắc lại chuyện cũ có thể chưa vui và
có thể động chạm tới một số vị, song một cái nhìn
hồi quan như vậy, theo tôi là cần thiết.
Trước hết là trách nhiệm của đội ngũ những
người tham gia truyền thụ, bao gồm các tác giả
của các tài liệu giáo khoa và những người trực tiếp
giảng dạy. Để làm tròn trách nhiệm của mình và
đạt được hiệu quả cao, nhất thiết họ phải nắm
được một cách vững vàng đặc điểm của ngôn ngữ
Việt, cần có kiến thức ngôn ngữ học, kiến thức
rộng rãi về văn hóa Việt và trong chừng mực nhất
định hiểu biết về ngôn ngữ và văn hóa của đối
tượng phục vụ, tức của những cá thể hoặc cộng
đồng mà ta đang hướng về họ để truyền thụ ngôn
ngữ Việt. Trong bài phát biểu này tôi muốn nói
chung cả tình hình trong nước lẫn nước ngoài.
Một quan niệm khá phổ biến cho rằng đã là
người Việt thì dạy được tiếng Việt bất kể nguồn
gốc đào tạo của mình là gì, vì đã có sách. Trước
hết cần biết là liệu tài liệu giáo khoa được sử dụng
có đáng tin cậy không. Sau đó là làm sao mà giải
đáp được những lỗi mà người học mắc phải, cũng
như những câu hỏi về những hiện tượng ngôn ngữ
mà người học bắt gặp bên ngoài tài liệu giáo khoa.
Đương nhiên yêu cầu nắm được đặc điểm của
tiếng Việt và lý luận ngôn ngữ học còn cao hơn rất
nhiều đối với những người biên soạn sách. Đôi khi
do tiếng Việt là bản ngữ của người truyền thụ mà
họ đã phạm phải những sai lầm không đáng có.
Đó là trường hợp một số phụ huynh người Việt ở
nước ngoài, mua sách Tiểu học trong nước về dạy
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
487
cho con em mình. Sai lầm là ở chỗ sách dành cho
trẻ em trong nước nhằm mục đích dạy chữ, trong
khi yêu cầu của trẻ người Việt ở nước ngoài là học
tiếng. Trường hợp nêu ra có vẻ quá thô thiển,
nhưng bản chất của vấn đề lại là một và được bộc
lộ ngay cả ở một số tác giả biên soạn sách hay
người trực tiếp truyền thụ khi mở đầu quá trình
giảng dạy bằng một loạt các bài Đánh vần, hoặc
một loạt bài Luyện phát âm các thanh điệu gắn với
đủ các loài hình âm tiết. Điều này xuất phát từ
kinh nghiệm bản thân, khi bắt đầu đi học, và đến
khi truyền thụ cho người nước ngoài, vẫn nghĩ là
đó là cách rút ngắn thời gian. Nhưng thực chất
hiệu quả lại ngược vì đó là những âm thanh vô
nghĩa, tức là cái biểu đạt tách khỏi cái được biểu
đạt và sự tồn tại của những kí hiệu ngôn ngữ
không có, mà như thế thì việc luyện tập sẽ thành
vô hiệu quả. Cần truyền thụ những từ, và cũng
không phải những từ biệt lập mà phải nằm trong
câu thì người thụ đắc ngôn ngữ mới lưu giữ được
trong ký ức. Những sai lầm như thế là hiện hữu
trong một số tài liệu giáo khoa đang lưu hành cả
trong nước cũng như nước ngoài.
Một quan niệm khác cũng không kém phần
phổ biến so với quan niệm trên, là người Việt giỏi
một ngoại ngữ nào đó sẽ là người có khả năng
truyền thụ được ngôn ngữ Việt, ngay cả khi không
sẵn có tài liệu giáo khoa. Điều đó được lý giải là
đã có một ngôn ngữ trung gian để giải thích nghĩa
của từ, của câu. Đó cũng là một quan niệm sai lầm.
Trước hết không thể phủ nhận được ưu thế hay là
sự cần thiết am hiểu một ngoại ngữ ngoài tiếng
Việt nhất là trong trường hợp người học tiếng Việt
lại sử dụng cùng ngoại ngữ đó với tư cách bản ngữ.
Như vậy sự đối chiếu giữa hai ngôn ngữ rất thuận
lợi. Tuy nhiên yêu cầu nắm vững đặc điểm của
tiếng Việt vẫn là yêu cầu tối thượng. Mỗi ngôn
ngữ có những đặc điểm riêng về Ngữ âm, Từ
vựng, Ngữ pháp. Việc chuyển dịch (translation)
không phải bao giờ cũng thực hiện được như
mong muốn. Nói về từ thôi, thì không phải bao
giờ cũng tìm thấy tương đương 1- 1. Còn về Ngữ
pháp thì giữa ngôn ngữ biến hình như các ngôn
ngữ Ấn Âu với tiếng Việt là một khoảng cách quá
xa, vì tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập, không
biến hình. Phương thức ngữ pháp của nó là trật tự
từ và dùng hư từ, nhưng so với những ngôn ngữ
cùng loại hình, nó cũng có những khác biệt. Các
phạm trù Thời, Thể, Thức của tiếng Việt có những
hình thức thể hiện khác hẳn và vô cùng đa dạng,
Người quen sử dụng ngôn ngữ Ấn Âu nghĩ rằng
đã, sẽ là thể hiện quá khứ và tương lại nhưng đâu
phải hoàn toàn như thế. Khi nghe một người Việt
nói: “Bao giờ anh sang Pháp” (1) phải hiểu là chủ
thể phát ngôn hỏi về một sự tình chưa xẩy ra.
Ngược lại khi nghe câu “Anh sang Pháp bao giờ”
(2) thì phải hiểu là hỏi về việc sự tình đã xẩy ra rồi.
Trật tự từ ở đây thay đổi. Mặt khác để trả lời câu
(1) người Việt chỉ nói “Tháng sau tôi sang Pháp”
và trả lời câu (2) là “Tôi sang Pháp năm ngoái”
chứ không hề dũng sẽ, đã gì hết.
Người Việt có nói: “Tôi sẽ tìm hiểu việc này”
nhưng với hàm ý “quyết tâm” hoặc “đe dọa” ngoài
cái gọi là “tương lai”. Nếu chỉ đơn thuần và một
mực cho là sẽ thể hiện tương lai, đã thể hiện quá
khứ thì không thể nào hiểu được những câu như
“Ngày mai anh đã về nước rồi à” hoặc “Cây này
tháng trước đang xanh mà nay đã vàng”.
Những người giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp mà
không hiểu được tiếng Việt đến nơi đến chốn thì
kết quả đào tạo của họ là những người nói tiếng
Việt theo kiểu “Tôi sẽ ăn cơm trong một giờ”. Tất
nhiên không phải ai ngay từ đầu đã biết đủ mọi
thứ, nhất là những vấn đề lịch sử và văn hóa mà
chúng ta sẽ đề cập tới dưới đây. Vấn đề là phải tự
trau dồi.
2/ Nắm được đặc điểm của ngôn ngữ cần
truyền thụ, có kiến thức ngôn ngữ học mới chỉ là
điều kiện cần chứ chưa phải là đủ. Một yêu cầu
nữa cũng rất quan trọng là sự hiểu biết rộng rãi về
lịch sử, văn hóa của người Việt.
Việc dạy văn hóa thường được ủy thác cho một
giáo viên và dạy biệt lập với dạy cấu trúc ngôn
ngữ, còn người dạy ngôn ngữ thì chỉ làm việc với
mẫu câu, với cách sử dụng các hư từ. Người ta
quên mất rằng các sự kiện văn hóa từ bao đời đã
“hóa thạch” và nằm ngay trong ngôn ngữ. Người
dạy ngôn ngữ phải tìm được những vết tích ấy, nói
cho người học biết vì sao người Việt nói thế này
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
488
mà không nói thế khác. Lý do tồn tại của những
sự kiện ngôn ngữ chính là ở những sự kiện văn
hóa. Điều này có thể minh họa bằng những ví dụ
cụ thể sau:
Trong cuộc sống thường ngày ta bắt gặp những
câu như: “Tôi vào thành phố Hồ Chí Minh thăm
mẹ”, hoặc “Cuối tháng nó mới ra Hà Nội”. Vào và
Ra trong hai câu trên đều biểu thị sự di chuyển,
nhưng có thể hoán vị cho nhau được không?
Đương nhiên là không. Vậy tại sao? Tại người
Việt quen nói vậy. Tại sao ngay từ đầu người ta
không dùng Vào, Ra ngược lại để đến nay có một
thói quen khác? Chỉ có thể giải thích được cách
dùng này căn cứ vào lịch sử, văn hóa.
Từ xa xưa, đúng hơn là một thiên nhiên kỷ về
trước, từ khi Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long,
xứ kinh kỳ này và rộng ra là miền Bắc được coi là
phong quang, thoáng đãng còn ngoài ra là “rừng
rú, âm u”. Mãi đến đời Lê mạt (thế kỷ XVI),
Nguyễn Hoàng lo trốn chạy để khỏi bị ám hại bởi
họ Trịnh nhận vào trấn thủ Thuận Hóa. Trịnh
Kiểm cũng ủng hộ vì đấy chỉ là nơi “mông muội,
tối tăm”, theo con mắt của người đương thời. Từ
một nơi thoáng đãng đến một chốn âm u, tối tăm
nên phải nói là Vào và ngược lại thì phải nói là Ra.
Hàm ý ấy của vào, ra có thể được kiểm chứng
bằng hàng loạt trường hợp như Ra chợ, Vào làng.
Chợ ở thôn quê xưa, 5 ngày 1 phiên vốn được họp
trên bãi đất trống ngoài làng. Còn trong làng sau
lũy tre xanh, bóng tre và cây ăn quả quanh năm
phủ kín. Đó là quang cảnh phổ biến của người
Việt từ bao đời và vì vậy mới nói là Ra chợ. Chỉ
từ khi làng mạc được đô thị hóa, chợ mới nằm ở
giữa phố phường và được lợp mái kín đáo và lúc
đó người ta lại nói ngược lại: “Vào chợ mà mua,
tha hồ mà chọn”.
Thiếu kiến thức văn hóa không thể lý giải được
từ dưới trong câu “Giọng bà Tú vọng từ dưới bếp
lên”. Cần biết rằng cho tới nay cộng đồng người
Việt sống ở thôn quê vẫn chiếm đại đa số. Ở đây
sơ đồ kiến trúc phổ biến là nhà được dựng xung
quanh một chiếc sân vuông, từ 3 phía, còn một
phía là vườn hoặc ao. Tòa nhà chính là nơi thờ
cúng được gọi là Nhà trên, hai tòa nhà còn lại, một
là bếp, một là nhà kho, hoặc là nơi để ngủ còn có
tên là nhà ngang, cả hai được gọi là Nhà dưới.
Trên hay dưới ở đây gọi theo tầm quan trọng chứ
cả ba cùng ở trên một mặt phẳng. Đó cũng là lý do
người Việt nói Trên bộ, Dưới xã và tương ứng với
quan niệm ấy, ta thường nghe thấy “Mai tôi lên
Bộ tường trình” và “Đồng chí xuống xã mà xem”.
Khi truyền thụ tiếng Việt cho người nước ngoài,
người đảm nhiệm việc dạy cấu trúc ngôn ngữ vẫn
phải dạy cả văn hóa, trong khi truyền đạt nguyên
tắc sử dụng các hư từ, động từ và các biểu thức
quen thuộc khác trong trường hợp cần thiết.
Người truyền đạt ngôn ngữ Việt cho đối tượng có
bản ngữ là ngôn ngữ gì cũng là vấn đề cần quan
tâm. Nếu người dạy nắm được cả bản ngữ của đối
tượng thì hiệu quả của việc giảng dạy sẽ đạt đến
mức lý tưởng. Người dạy sẽ có điều kiện đối chiếu
hai ngôn ngữ và từ đó nêu bật được đặc điểm của
ngôn ngữ Việt, và có khả năng cảnh báo được
những hiểu lầm có thể xẩy ra do sự khác biệt giữa
ngôn ngữ - văn hóa nguồn và ngôn ngữ - văn hóa
đích. Trong trường hợp người dạy không biết
được thứ ngoại ngữ kia, giáo viên dạy tiếng Việt
cố gắng liên hệ và hợp tác với một giáo viên
người Việt đang dạy ngoại ngữ đó cho người Việt
và việc hợp tác sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Đương nhiên việc làm này đòi hỏi một số thời
gian nhất định song nếu thực hiện được thì sẽ đạt
được hiệu quả lâu dài. Điều này cần “tổ chức”
giúp sức, cụ thể là “tổ chức” nên phân công giáo
viên nào dạy cho loại đối tượng nào thì liên tục
dạy cho loại đối tượng ấy, nói cách khác là, trong
trường hợp có thể, nên chuyên nghiệp hóa việc
giảng dạy của giáo viên.
Đó cũng là một ý tưởng cần quan tâm trong
chiến lược phát triển việc dạy tiếng Việt như một
ngoại ngữ.
3/ Nói đến chiến lược thì có nhiều vấn đề để
suy nghĩ. Điều đáng mừng là ngày nay tiếng Việt
đang có một vị thế cao hơn trước nhiều. Ở Nhật
Bản, Hàn Quốc và nhiều nước có khoa tiếng Việt
nằm trong các trường Đại học, đó là chưa kể
những trung tâm những lớp riêng lẻ dạy vào buổi
tối. Tại Việt Nam ở những thành phố lớn đều có
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
489
những cơ sở dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
thu hút đông đảo người học đến từ các quốc gia
khác nhau. Sách vở biên soạn ngày một nhiều. Có
người cho rằng đã đến lúc cần quy định chuẩn cho
các sách giáo khoa, và cần thiết định chuẩn cho
việc sát hạch để cấp chứng chỉ. Tôi cho rằng đây
là những thiện chí đáng khuyến khích, song làm
được đến đâu và trước mắt phải làm gì, đó là điều
cần phải bàn. Có thể tại một số cơ sở hiện nay
đang có động thái chuẩn bị cho việc sát hạch này.
Tôi xin ủng hộ, duy chỉ muốn nói đến một lộ trình
và muốn đề xuất công việc trước mắt cần làm.
Kinh nghiệm của thế giới cho biết muốn đến
Mỹ để sinh hoạt và học tập ở các trường cao đẳng
hoặc đại học đều phải qua một cuộc sát hạch đạt
chuẩn của Toefl (đến Anh thì phải đạt IELTS).
Đấy là nói chung, còn nếu đi vào chuyên môn sâu
hơn thì lại phải có tiếng Anh nâng cao, tức là SAT
(Scholastic Accessment Test hay Scholastic
Aptitude Test) do Học viện Anh ngữ quốc tế (IEI)
đưa ra. Nếu muốn học học cao học hay làm
nghiên cứu sinh thì phải qua GRE (Graduate
Record Examination), còn muốn học Thạc sỹ
Quản trị kinh doanh thì lại phải qua GMAT
(Graduate Management Admission Test).
Toefl là thương hiệu của Cơ quan Khảo thí
Giáo dục Mỹ (Education Testing Service, viết tắt
là ETS) được thành lập từ 1964, và nói chung, kể
cả SAT, GMAT, GRE đều thuộc Cơ quan Giáo
dục Tối cao (Summit Education Services).
Chúng ta muốn có một kỳ thi sát hạch về tiếng
Việt tương tự như Toefl thì một Khoa, một Trung
tâm không có đủ tư cách, đủ khả năng để thực
hiện. Cần phải có sự hợp lực của nhiều cơ sở, của
nhiều chuyên gia. Để tiến tới một cái chung như
thế, mỗi cơ sở đào tạo vẫn có thể và nên dự kiến
cho riêng mình một mức sát hạch và phát bằng.
Tuy nhiên vấn đề không hề đơn giản.
Trước hết cần xác định yêu cầu, sau đó mới đến
việc làm đề thi trắc nghiệm. Công đoạn đầu không
thể được tiến hành một cách tiên nghiệm võ đoán,
mang tính chủ quan. Nó đòi hỏi một sự tổng kết
và điều tra thực tế nghiêm chỉnh.
Thụ đắc tiếng Việt đến đâu thì được coi là làm
chủ được ngôn ngữ này, đó là chưa kể chỉ tiêu đó
còn liên quan đến mục đích của việc làm chủ. Thế
nào là thành thạo tiếng Việt đã là việc khó xác
định, nhưng mức thành thạo để có khả năng học
tập ở các trường cao đẳng và đại học lại là việc
khó xác định hơn.
Một quan niệm đơn giản sẽ cho là người dự thi
sát hạch phải nắm được hết các mẫu câu trong
sách giáo khoa. Vậy thì có bao nhiêu mẫu câu?
Mỗi sách giáo khoa đưa ra một số mẫu. Chúng có
thể trùng nhau và thường là như vậy, nhưng cũng
có những mẫu khác. Việc tổng kết các sách giáo
khoa là điều tất yếu để xây dựng chỉ tiêu. Song,
thi sát hạch là phải kiểm tra cả 4 kỹ năng Nghe,
Nói, Đọc, Viết. Việc tổng kết các mẫu câu có thể
có thể có nhiều tác dụng trong việc kiểm tra Viết
và Nói vì thí sinh chủ động trong việc sử dụng các
biểu thức ngôn ngữ quen thuộc đã thụ đắc được.
Nhưng khi Đọc và nhất là Nghe thì không phải
vậy. Thí sinh vừa ở trong thế bị động, vừa phải
suy đoán. Để hoàn thành bài Nghe hiểu thí sinh
phải nghe một đoạn Hội thoại, mà đã là Hội thoại
thì rất khó, vì đó là khẩu ngữ. Trong một cặp thoại,
lượt lời thứ hai đôi khi thiếu hẳn một thành phần
của câu, người nghe phải nắm được sự liên kết các
phát ngôn thì mới hiểu được, đó là chưa kể khi
gặp phải hành vi ngữ dụng (Pragmatic Acts).
Muốn sát hạch kỹ năng này cần phải có một điều
tra thực tế thích đáng để ra đề thi. Bài sát hạch nói
chung (về đủ các kỹ năng) nếu dễ quá thì mảnh
bằng phát ra vô giá trị vì không đáp ứng được yêu
cầu sinh hoạt và học tập ở các trường cao đẳng và
đại học tại Việt Nam nhưng nếu khó quá thì nhiều
người lại không đạt.
Tóm lại việc sát hạch trình độ tiếng Việt trong
tình hình hiện nay chỉ được giới hạn ở Việt Nam
chứ chưa đưa ra nước ngoài. Và để chuẩn bị cho
nó thì các cơ sở đào tạo tiếng Việt như một ngoại
ngữ hãy bằng lòng với những nghiên cứu riêng lẻ
của mình tạo căn cứ cho một sự hợp tác và thống
nhất trong tương lai.
Công đoạn đầu tiên là tổng kết các tài liệu giáo
khoa và điều tra thực tế một cách bài bản. Đó là
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
490
mục tiêu phấn đấu trước mắt trong chiến lược lâu
dài. Công đoạn thứ hai là soạn thảo các để thi trắc
nghiệm (Test) để kiểm tra năng lực người dự thi
xem có đạt được những yêu cầu đề ra, vốn được
xác định ở công đoạn đầu. Đương nhiên những
yêu cầu ấy chắc chắn còn phải điều chỉnh cùng
với thời gian thử nghiệm. Và công đoạn thứ ba
mới là viết sách Luyện thi mà nội dung không
phải cái gì khác hơn là những kết quả đã đạt được
ở công đoạn đầu.
Đã nói đến chiến lược của việc dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài thì việc thi sát hạch tiếng
Việt mới chỉ là một khâu, còn một khâu không
kém phần quan trọng là phải tổ chức dạy tiếng
Việt nâng cao tức tiếng Việt trong chuyên môn
của một số ngành (không nhiều lắm) mà ta có thể
biết được như nông lâm nghiệp, công nghiệp, y tế,
kinh tế tài chính Ở đây không có vấn đề sát
hạch tương tự như SAT, GMAT, GRE đối với
tiếng Anh, mà chỉ có vấn đề giảng dạy. Công việc
này đang là một yêu cầu bức xúc của khá nhiều
người nước ngoài thân thiết với chúng ta. Họ đến
Việt Nam để học tập trong các ngành vừa kể.
Đương nhiên công việc này rất khó khăn, cần
động viên và hợp tác, nếu không muốn nói là giúp
đỡ các giáo viên chuyên môn đang trực tiếp giảng
dạy tại các ngành đó. Việc tập hợp những biểu
thức ngôn ngữ thường gặp trong chuyên môn, việc
giải thích các thuật ngữ phổ biến trong ngành, nếu
được in ấn thành những tập sách không dày lắm sẽ
là những đóng góp hữu hiệu cho việc học tập của
người nước ngoài đang gặp khó khăn, đồng thời là
một việc làm mang ý nghĩa chính trị cao. Đó cũng
là một hạng mục trong chiến lược dạy tiếng Việt
như một ngoại ngữ.
Cũng có người nghĩ đến việc quy định các mức
chuẩn cho việc biên soạn sách giáo khoa, vì hiện
nay sách viết thì nhiều và tự nhận là cơ bản hay cơ
sở, tự nhận là nâng cao, không biết lấy đâu làm
căn cứ. Chúng ta chia sẻ với nỗi băn khoăn ấy
nhất là khi thấy Liên minh Pháp ngữ (Alliance
francaise) đưa ra những tập Quy chiếu chương
trình (Refecentiel de Programmes), quy định nội
dung của các trình độ như A1, A2, B1, B2, C1,C2.
Liên minh Pháp ngữ là một tổ chức quốc tế để
truyền bá ngôn ngữ và văn hóa Pháp trên toàn cầu
ra đời cầu từ cuối thế kỷ 19. Lúc đầu chỉ là nơi
dạy tiếng Pháp như một ngôn ngữ thứ hai, và chỉ
có ở Paris. Dần dần nó lan rộng ra một số tỉnh
thành và lúc đầu cũng chẳng có quy định gì hết.
Nhưng đến nay đã có hơn 1.000 địa điểm dạy
tiếng Pháp ở hơn 100 nước thuộc khắp các châu
lục. Ngoài châu Âu, có châu Phi, châu Mỹ (riêng
Mexico đã có 38 địa điểm) rồi châu Đại Dương (ở
Australia có 31 địa điểm) và châu Á trong đó có
Trung Quốc, Việt Nam, Philippine, Thái Lan,
Malaysia, Hàn Quốc Riêng Trung Quốc ở rất
nhiều tỉnh, từ Bắc Kinh, Nam Kinh đến Vũ Hán
đều có mặt những trung tâm của tổ chức này.
Liên minh Pháp ngữ (Allianc